Tọa đàm "Để kinh tế tư nhân bứt phá theo Nghị quyết 68 - Những việc cần làm ngay" - Ảnh VGP/Nhật Bắc
Lùi lại vài thập kỷ trước khi chúng ta bước vào thời kỳ đổi mới, một loạt thông điệp như "mệnh lệnh được phát ra từ trái tim và khối óc": "Cởi trói", "Đổi mới hay là chết" đã quy tụ được sức mạnh toàn dân, giải phóng sức sản xuất, tạo nên sự hứng khởi, để tất cả các thành phần kinh tế đều được "bung ra", chung sức đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng KTXH sâu sắc và đến bây giờ chúng ta đã có được cơ đồ rất đỗi tự hào.
Thực tiễn gần 40 năm đổi mới cho thấy khu vực kinh tế tư nhân đã đi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ công việc hằng ngày của những tiểu thương cung cấp hàng hóa dịch vụ thiết yếu cho mỗi người dân đến những tập đoàn, doanh nghiệp lớn đã và đang đưa thương hiệu Việt vươn ra thị trường khu vực và thế giới.
Với hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước, sử dụng khoảng 82% tổng số lao động.
Tuy nhiên, bên cạnh những bước tiến rất đáng tự hào, kinh tế tư nhân vẫn đang đối mặt với nhiều rào cản, kìm hãm sự phát triển, chưa đáp ứng được yêu cầu và kỳ vọng là lực lượng kinh tế nòng cốt của đất nước.
Trong thời gian gần đây, dư luận liên tiếp được đón nhận một loạt thông điệp hết sức quan trọng từ các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước về kinh tế tư nhân như: "Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia"; "tháo chốt", loại bỏ những điểm nghẽn để kinh tế tư nhân bứt phá trong kỷ nguyên vươn mình; muốn tăng trưởng 2 con số, phải dựa vào kinh tế tư nhân…
Đặc biệt, trong bài viết "Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng", đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã khái quát "một bức tranh toàn cảnh" của khu vực kinh tế tư nhân. Bên cạnh những gam màu tươi sáng, những nốt nhạc vui, Tổng Bí thư cũng chỉ rõ những vấn đề còn trăn trở. Qua đó, đồng chí Tô Lâm đã đưa ra những định hướng hết sức quan trọng, "phát pháo lệnh" cho toàn bộ hệ thống chính trị tập trung nghiên cứu các giải pháp nhằm "phá tan những điểm nghẽn" để kinh tế tư nhân bứt phá.
Ngay sau đó, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân do đích thân ông làm Trưởng ban và Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng làm Phó Trưởng Ban Thường trực. Ban Chỉ đạo đã tập trung toàn bộ sức lực, thời gian, trí tuệ làm việc với tinh thần trách nhiệm, khẩn trương, chuyên nghiệp, hoàn thành dự thảo với chất lượng cao trong thời gian ngắn. Ngày 04/5/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về Phát triển kinh tế tư nhân.
Ngay sau đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chủ trì liên tiếp 2 cuộc họp vào ngày 7/5 và 8/5 về xây dựng dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển kinh tế tư nhân, để trình Quốc hội thông qua ngay tại Kỳ họp thứ 9 đang diễn ra.
Vui mừng đón nhận Nghị quyết 68, giới chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp cho rằng, nghị quyết này đã thể hiện bước tiến đột phá về tư duy phát triển; là "cuộc cách mạng về tư duy và thể chế"; là "bước ngoặt lịch sử" trong việc thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá với những mục tiêu truyền cảm hứng, đầy khát vọng; đi vào tận gốc rễ của vấn đề là "cải cách thể chế", khơi thông các nguồn lực, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, mở rộng không gian phát triển, hỗ trợ thực chất; tạo lập và củng cố niềm tin,… để đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới – kỷ nguyên của sáng tạo, hội nhập và thịnh vượng, trong đó kinh tế tư nhân "là một động lực quan trọng nhất; là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng" với tinh thần chủ động, tự cường, đầy khát vọng.
Vậy, đâu là những tư tưởng lớn, những điểm mới, điểm đột phá trong Nghị quyết 68? Và quan trọng nhất là cần phải làm gì để đưa nghị quyết sớm đi vào cuộc sống? Những nội dung này sẽ được bàn thảo, phân tích, hiến kế tại Tọa đàm: "ĐỂ KINH TẾ TƯ NHÂN BỨT PHÁ THEO NGHỊ QUYẾT 68 – NHỮNG VIỆC CẦN LÀM NGAY" do Cổng TTĐT Chính phủ tổ chức vào lúc 14.00, ngày 9/5 với sự tham dự của các vị khách mời:
- Ông Phan Đức Hiếu, Đại biểu Quốc hội - chuyên gia kinh tế
- Bà Bùi Thu Thủy, Phó Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể, Bộ Tài chính
- Ông Từ Tiến Phát, Tổng Giám đốc Ngân hàng ACB.
Điều phối cuộc tọa đàm: TS. Nguyễn Sĩ Dũng
TS. Nguyễn Sĩ Dũng trao đổi với ông Phan Đức Hiếu - Ảnh VGP/Nhật Bắc
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Với tư cách là một chuyên gia kinh tế, cũng là người đại biểu nhân dân, ông cảm nhận thế nào về những thông điệp rất chiến lược được nêu trong Nghị quyết 68?
Ông Phan Đức Hiếu: Tôi cho rằng sự ra đời của Nghị quyết 68 là rất cần thiết và có ý nghĩa trong bối cảnh hiện nay. Những thông điệp trong nghị quyết rất rõ ràng và mạnh mẽ, đã đi thẳng vào những vấn đề của khu vực kinh tế tư nhân, giải quyết những trở ngại tồn tại lâu nay.
Chúng ta thử nhìn lại lịch sử để thấy được vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế tư nhân và tại sao nó lại có một vị trí như vậy. Ở đây, tôi cho rằng có hai mốc rất quan trọng.
Mốc thứ nhất là vào giai đoạn 1978-1990, chúng ta chuyển từ quan điểm kinh tế tư nhân là thành phần cải tạo, nghĩa là không được thừa nhận, chuyển sang là được thừa nhận, và bắt đầu cho phép được hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực nhất định theo quy định của pháp luật. Tôi cho rằng đây là một sự thay đổi, là một bước ngoặt đầu tiên đối với khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn này vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Dù chúng ta đều biết, doanh nghiệp tư nhân đóng góp rất tích cực cho các hoạt động kinh tế xã hội, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ.
Mốc thứ hai là sự ra đời của Luật Doanh nghiệp. Đó là năm 1999-2000. Đây là một mốc lớn, thay đổi một bước nữa về quan điểm của Việt Nam đối với khu vực tư nhân.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng điều phối cuộc tọa đàm - Ảnh VGP/Nhật Bắc
Quan điểm thứ nhất là thay đổi từ việc kinh tế tư nhân được làm trong một số lĩnh vực hạn chế, chỉ được làm trong một số lĩnh vực mà nhà nước cho phép chuyển sang tư duy kinh tế tư nhân được làm, được kinh doanh trong những ngành nghề mà nhà nước không cấm. Tôi cho rằng đây là một bước thay đổi đột phá về quyền kinh doanh của kinh tế khu vực tư nhân. Và kèm theo đó là sự thay đổi về thể chế rất mạnh mẽ (nhấn mạnh là thủ tục).
Từ năm 2000, chúng ta hiểu rằng đó là chuyển từ việc thành lập doanh nghiệp để đi kinh doanh (năm 1990 là Luật Công ty, cho phép cấp phép thành lập) thì từ năm 2000 chuyển sang thành đăng ký kinh doanh để thành lập. Đây là quyền chủ doanh nghiệp mà nhà nước ghi nhận điều đó. Lúc này, thủ tục đơn giản hơn rất nhiều. Trước năm 2000, chúng ta mất rất nhiều thời gian, có thể từ 1 năm đến vài năm với điều kiện rất ngặt nghèo để thành lập công ty, thì sau này thì việc thành lập này rất dễ dàng, có thể tính bằng ngày, bằng giờ.
Trong suốt từ thời gian đó đến nay, chúng ta vẫn liên tục cải cách. Tuy nhiên, việc ra đời Nghị quyết 68 ở thời điểm này, cá nhân tôi cho rằng nếu triển khai thực hiện tốt thì đây có thể là bước ngoặt, đột phá thứ ba trong lịch sử phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Và tôi so sánh sự đột phá lần này khác với hai lần đột phá trước.
Đột phá thứ nhất là việc thừa nhận khu vực kinh tế tư nhân. Đột phá thứ hai là trao quyền kinh doanh và có sự cải cách thủ tục hành chính, chủ yếu ở mức gia nhập thị trường. Nhưng nếu chúng ta nhìn sâu vào Nghị quyết 68 thì đã tiến thêm một bước, sẽ giúp thay đổi khu vực kinh tế tư nhân về chất. Bởi vì chúng ta nhìn lại tất cả các giải pháp trong nghị quyết này cho thấy ba nhóm mục tiêu và Bộ Chính trị mong muốn.
Thứ nhất là tiếp tục tạo thuận lợi hơn cho việc gia nhập thị trường. Thông điệp ở đây rất rõ là xóa bỏ các rào cản hành chính trong quá trình hoạt động. Đó là cách giảm 30% thủ tục quy định chi phí tuân thủ. Đây là một sự tiến lên rất lớn so với thời điểm những năm 2000.
Thứ hai là tăng mức độ bảo vệ. Chúng ta có thể nhìn thấy xử lý trách nhiệm của khu vực kinh tế tư nhân theo hướng không hình sự hoá, như vậy là đã giảm thiểu rất nhiều rủi ro cho khu vực này.
Ông Phan Đức Hiếu: Nếu triển khai thực hiện tốt Nghị quyết 68 thì có thể là bước ngoặt, đột phá thứ ba trong lịch sử phát triển khu vực kinh tế tư nhân - Ảnh VGP/Nhật Bắc
Thứ ba là khơi thông nguồn lực. Đó là giúp khu vực này tiếp cận nguồn lực với đất đai, nguồn lực về mặt bằng sản xuất kinh doanh, về vốn, nhân sự. Trong này, có một nhóm giải pháp ẩn, mang tính chất khơi thông nguồn lực rất lớn, đó là thúc đẩy nhanh và hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp. Tôi lấy ví dụ, một hợp đồng thương mại dân sự hay là một hợp đồng tín dụng, mà trước đây giải quyết mất hai năm, thì đó là không hiệu quả. Hay là những nguồn lực mà trước đây doanh nghiệp rất sợ nhà nước chiếm dụng của doanh nghiệp (đó là phải trả cho doanh nghiệp nhưng không trả hoặc trả chậm) thì hiện nay sẽ được giải quyết trong nghị quyết.
Như vậy, so sánh trong lịch sử phát triển khu vực kinh tế tư nhân thì chúng ta đã có hai dấu mốc, đó là 1988-1990 và 1999-2000, mà lần này với 3 cải cách mà tôi vừa nói sẽ xóa bỏ sự phiền hà, tăng mức bảo vệ và khơi thông nguồn lực thì đây sẽ là dấu mốc thứ ba giúp thay đổi chất lượng khu vực kinh tế tư nhân, để đáp ứng nhu cầu mục tiêu phát triển kinh tế đất nước 2030-2045.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Như vậy chúng ta đã thấy ông Phan Đức Hiếu đã phân tích rất sâu về lịch sử hình thành của khu vực kinh tế tư nhân. Tôi xin bổ sung thêm một ý, đó là trong thời điểm khu vực kinh tế tư nhân bị cấm thì vẫn phát triển, vẫn cung cấp nhiều thứ mà khu vực kinh tế khác không làm được, để chúng ta thấy sức sống mãnh liệt của kinh tế tư nhân. Còn hiện nay, đối với khu vực kinh tế tư nhân chính là tạo niềm tin, tạo sự an toàn. Tôi ví dụ như, vấn đề xử lý vi phạm thì chúng ta lựa chọn không áp dụng hồi tố, giúp cho môi trường kinh doanh trở nên an toàn hơn. Điều này giúp khu vực kinh tế phát triển hơn, đồng thời cũng hạn chế được sự nhũng nhiễu.
Ông Từ Tiến Phát: Chúng tôi cũng như các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam đã mong mỏi Nghị quyết này từ rất lâu - Ảnh VGP/Nhật Bắc
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Người ta vẫn ví von thương trường là chiến trường, doanh nhân là chiến sĩ và Nghị quyết 68 cũng nêu rõ quan điểm "Doanh nhân là chiến sĩ trên mặt trận kinh tế" thưa ông Từ Tiến Phát với tư cách là một "người thực chiến", ông cảm nhận thế nào về vai trò của doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp dân tộc trong kỷ nguyên vươn mình?
Ông Từ Tiến Phát: Xin giới thiệu về Ngân hàng ACB, chúng tôi hình thành và phát triển trong giai đoạn sau Đổi mới, năm 1993. Khi đó, rất nhiều doanh nghiệp tư nhân trong đó có các ngân hàng được hình thành và phát triển. Hiện nay, chúng tôi đang phục vụ gần 300.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ và hơn 800.000 hộ kinh doanh. Có thể nói chúng tôi đang phục vụ rất lớn lượng doanh nghiệp tư nhân. Chúng tôi hiểu rất rõ những trăn trở của doanh nghiệp và hộ kinh doanh trong thời kỳ hiện nay.
Phải nói rằng thời kỳ hiện nay có nhiều biến động bên trong và bên ngoài, chủ yếu liên quan đến kinh tế toàn cầu, những tranh chấp, những vấn đề thuế quan… Việc ví von "Doanh nhân là chiến sĩ trên mặt trận kinh tế" là rất đúng. Doanh nhân hiện nay đối mặt với nhiều thách thức, từ vấn đề cạnh tranh, thị trường, thuế quan và trách nhiệm của họ là phải giữ được doanh nghiệp của mình. Vậy làm sao cạnh tranh được tốt hơn, làm sao đổi mới sáng tạo là việc thường trực hàng ngày?
Khi Nghị quyết 68 đưa vấn đề kinh tế tư nhân là quan trọng hàng đầu, chúng tôi nhìn nhận vừa là vinh dự nhưng cũng vừa là trách nhiệm. Chúng tôi cũng như các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam đã mong mỏi Nghị quyết này từ rất lâu. Chúng tôi thấy rằng việc triển khai Nghị quyết này đang được triển khai gấp rút.
Chúng tôi là doanh nghiệp thiên về tài chính nên nhìn nhận rõ trách nhiệm của mình. Chúng tôi nhìn nhận thể chế giống như trận địa, các doanh nghiệp là những người ở tuyến trước, còn chúng tôi là doanh nghiệp tài chính thì như hậu phương về tài chính. Chúng tôi phải bảo đảm được nguồn vốn rẻ, nguồn vốn phù hợp, những hệ thống chuyển đổi số thanh toán làm sao cho doanh nghiệp cảm thấy thuận lợi và tự tin hơn trong việc kinh doanh của mình. Phải nói rằng chúng tôi đánh giá rất cao và nhìn nhận đây là một bước đổi mới rất lớn của Việt Nam.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Đây là một ghi nhận của Đảng và Nhà nước đối với vai trò của doanh nghiệp tư nhân và bản thân tôi thấy làm doanh nhân rất vất vả vì luôn gặp rủi ro. Ví dụ như bây giờ chỉ cần chính sách thuế quan của Mỹ thay đổi thì đều ảnh hưởng, chưa kể trên mạng xã hội, chỉ cần một người khách hàng không vừa lòng cũng ảnh hưởng rất nhiều.
Bà Bùi Thu Thủy: Một điểm rất quan trọng là niềm tin - Ảnh VGP/Nhật Bắc
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Như ông Từ Tiến Phát và đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu vừa bày tỏ, những thông điệp trong Nghị quyết 68 đã khơi gợi niềm cảm hứng rất lớn đối với cộng đồng doanh nghiệp. Từ phía cơ quan quản lý nhà nước về phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể, đề nghị bà Bùi Thu Thủy chia sẻ về bức tranh toàn cảnh và triển vọng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, doanh nghiệp dân tộc. Và tại sao Bộ Chính trị lại nhấn mạnh quan điểm phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài?
Bà Bùi Thu Thủy: Về chủ đề kinh tế tư nhân, Cục Phát triển doanh nghiệp luôn đau đáu mấy chục năm qua, gần như là câu chuyện thường nhật. Trong nhiều năm qua, chúng tôi theo sát sự ra đời của Luật Doanh nghiệp, Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng nhiều chính sách liên quan. Tuy nhiên, quá trình thực thi vẫn còn nhiều hạn chế so với kỳ vọng và tinh thần trong các nghị quyết.
Chẳng hạn, Nghị quyết Trung ương 10 từ năm 2017 đã ghi rõ nguyên tắc "không hình sự hóa các quan hệ kinh tế". Nhưng đến nay, thực tiễn vẫn còn nhiều vướng mắc trong việc cụ thể hóa tinh thần đó. Nghị quyết lần này đã có bước tiến quan trọng, với những mô tả chi tiết hơn. Như anh Nguyễn Sĩ Dũng đã đề cập, trong trường hợp chưa rõ ràng ("50-50") thì kiên quyết không hình sự hóa.
Khi chúng tôi tham gia xây dựng nghị quyết, ban đầu rất lo ngại rằng những đề xuất mạnh mẽ như vậy sẽ không được chấp thuận. Nhưng lần này, có sự chỉ đạo quyết liệt từ Trung ương, đặc biệt là bài viết của Tổng Bí thư như kim chỉ, tiếp thêm niềm tin và quyết tâm cho chúng tôi. Có thể khẳng định, nghị quyết lần này có tính đột phá cao hơn hẳn các lần trước. Ví dụ như về điều kiện kinh doanh – một "bức tường" rất khó tháo gỡ – thì nay nghị quyết nêu rõ: chuyển toàn bộ sang công bố, không để các bộ, ngành tự đặt thêm điều kiện, trừ các lĩnh vực liên quan đến quốc phòng, an ninh và sức khỏe người dân. Đây là một đột phá thực sự, gần như bức tường được phá băng.
Một điểm rất quan trọng là niềm tin. Lần này, Đảng và Chính phủ đã thể hiện sự tin tưởng sâu sắc đối với khu vực tư nhân. Trước đây, trong thực tế, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI thường được ưu tiên hơn so với doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt trong tiếp cận tín dụng. Có thời kỳ, doanh nghiệp nhà nước được tín chấp, không cần tài sản thế chấp vẫn vay được vốn, trong khi doanh nghiệp tư nhân thì vô cùng khó khăn.
Nghị quyết lần này khẳng định rõ ràng yêu cầu bình đẳng giữa các khu vực kinh tế trong cơ hội kinh doanh, tiếp cận nguồn lực... Không chỉ dừng ở trên nghị quyết, điều này sẽ được thể chế hóa bằng các giải pháp cụ thể. Nếu vẫn có hành vi phân biệt đối xử, người thực hiện phải chịu trách nhiệm. Chúng tôi tin rằng việc thực thi sẽ là yếu tố quyết định thành công.
Về lý do Bộ Chính trị nhấn mạnh quan điểm phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả – vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là chiến lược lâu dài – là bởi: Hiện nay, khu vực FDI đóng góp khoảng hơn 20% GDP; khu vực doanh nghiệp nhà nước cũng tương đương. Trong khi đó, kinh tế tư nhân trong nước chiếm hơn 50%. Nếu mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 là 8% và xa hơn là tăng trưởng hai con số thì vai trò của kinh tế tư nhân là cực kỳ quan trọng.
Trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động, dịch chuyển chuỗi cung ứng, thuế tối thiểu toàn cầu..., khu vực FDI cũng cần thận trọng. Doanh nghiệp nhà nước thì đang được tái cơ cấu, tập trung vào các lĩnh vực thiết yếu. Vì vậy, nếu muốn đạt mục tiêu phát triển bền vững, dài hạn, khu vực tư nhân vô cùng quan trọng.
Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn nhận, tuy số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng, nhưng đa phần còn nhỏ, sức cạnh tranh yếu, tỉ lệ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu thấp (dưới 20%), trong khi 70% giá trị xuất khẩu vẫn thuộc về FDI. Vậy nên, định hướng phát triển nhanh, mạnh nhưng phải bền vững – nghĩa là không chỉ giải quyết khó khăn trước mắt mà còn đảm bảo vai trò lâu dài, song hành cùng nhà nước – là hoàn toàn xác đáng và cấp thiết.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Rất rõ ràng, Nghị quyết lần này thực sự tạo được niềm tin – không phải là phản ứng nhất thời mà là một chiến lược quốc gia lâu dài. Điều đó gỡ bỏ nhiều rào cản, tạo nền tảng để doanh nghiệp tư nhân phát triển. Thực tế, các quốc gia thịnh vượng như Hàn Quốc, Nhật Bản đều dựa vào doanh nghiệp tư nhân làm động lực chính, với sự dẫn dắt của nhà nước. Ngay cả Trung Quốc hiện nay, các tập đoàn lớn như BYD, Alibaba… đều là tư nhân.
Như quy luật kinh tế đã chứng minh, những lĩnh vực vì lợi nhuận thì kinh tế tư nhân sẽ phát huy hiệu quả tốt nhất. Chỉ những nhiệm vụ đặc thù mới thuộc về doanh nghiệp nhà nước. Nếu không tận dụng sức mạnh của kinh tế tư nhân, đất nước khó có thể phát triển hùng cường.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Thưa ông Phan Đức Hiếu, các chuyên gia cho rằng, để phát triển kinh tế tư nhân thì gốc rễ của vấn đề là cải cách thể chế. Là người đại biểu trong cơ quan lập pháp của đất nước, ông đánh giá thế nào về tổng thể hệ thống thể chế, chính sách phát triển kinh tế tư nhân hiện hành? Và tại sao trong Nghị quyết 68, Bộ Chính trị xác định quan điểm "kịp thời xây dựng và hoàn thiện pháp luật và cơ chế chính sách đột phá để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển" và "đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách, bảo đảm và bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng của kinh tế tư nhân và bảo đảm thực thi hợp đồng của kinh tế tư nhân" là nhiệm vụ, giải pháp cần phải tập trung thực hiện?
Ông Phan Đức Hiếu: Cái này rất rõ ràng, có bằng chứng và thực tiễn về vai trò, ý nghĩa, tác động, tầm quan trọng của cải cách thể chế đối với thúc đẩy các hoạt động kinh tế xã hội nói chung, trong đó có hoạt động đầu tư kinh doanh. Cụ thể:
Thứ nhất, nếu như cải cách thể chế tốt, đáp ứng đúng nhu cầu nguyện vọng của người dân và doanh nghiệp thì người ta cho rằng đây là một biện pháp cải cách rẻ nhất nhưng lại mang lại hiệu quả lớn nhất.
Thứ hai là cái biện pháp này là dễ nhất. Nhà nước làm ra thể chế thì Nhà nước tiến hành cải cách. Xét về mặt lý thuyết là dễ nhất. Tất nhiên xét về mặt thực tế thì có những lực cản. Và trong thực tế cải cách thể chế của nước ta thì đã chứng minh là không phải có những hỗ trợ mạnh mẽ về nguồn lực thì mới tạo ra sự đột phá mà chỉ khi cải cách mạnh mẽ về thể chế mới tạo ra được đột phá.
Hai dấu mốc ban đầu mà tôi nói năm 1988 và giai đoạn 1990 thì đó là cải cách thể chế. Đặc biệt là năm 1999 và năm 2000, khi chúng ta ra đời Luật Doanh nghiệp, đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp, gia nhập thị trường, chuyển từ cấp phép sang đăng ký, rút ngắn hàng trăm ngày trong việc thành lập doanh nghiệp, bãi bỏ khoảng 150 - 160 giấy phép kinh doanh. Và kết quả là gì? Tôi còn nhớ khi chúng tôi tổng kết thi hành Luật doanh nghiệp năm 2000 thì chỉ 5 năm thi hành Luật doanh nghiệp, tức là từ năm 2000 đến năm 2005, số lượng doanh nghiệp thành lập mới trong giai đoạn 5 năm đấy so với trước đấy 10 năm thì tăng nhiều lần. Từ năm 1990 - 2005 chia ra làm hai giai đoạn thì số lượng doanh nghiệpthành lập trong giai đoạn 2000 đến 2005 chiếm 80% tổng số doanh nghiệp được thành lập trong 15 năm. Điều đó góp phần rất lớn trong việc tạo lập được lực lượng doanh nghiệp như ngày hôm nay, mặc dù chưa đông, đủ như kỳ vọng và mong muốn của chúng ta.
Tôi muốn nhấn mạnh lại, đó là cải cách thể chế sẽ là biện pháp hiệu quả nhất, công bằng nhất, tốn ít chi phí nhất mà có thể làm được gọi là khả thi nhất, đứng từ góc độ của Chính phủ.
Nhìn vào Nghị quyết 68, số lượng giải pháp về cải cách thể chế là chủ đạo. Như vậy, như Tổng Bí thư nói, thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn và nếu như chúng ta tập trung cải cách mạnh mẽ về thể chế thì tác động nó sẽ rất lớn. Chúng tôi hiểu là thể chế phải đi trước, thể chế phải đi trước thì mới có kết quả.
Tôi là người nghiên cứu rất kỹ Nghị quyết 68 và tôi muốn trao đổi thêm ba điểm về tinh thần của các nhóm giải pháp về cải cách thể chế. Tôi thấy nổi lên mấy từ không phải là "đơn giản", cũng không phải là "sửa đổi" mà ở đây là thể hiện rất mạnh là "bãi bỏ", "cắt giảm", có nghĩa là chúng ta phải bỏ, phải cắt đi, tức là một quy định không tốt thì không phải là chúng ta sửa để cho nó tốt hơn một chút mà quy định đấy không tốt thì bãi bỏ. Tinh thần này rất khác với trước đây và tương đồng với kinh nghiệm cải cách thể chế ở các nước.
Chúng ta phải hiểu là không phải chỉ thủ tục hành chính, nếu như luật nào, nghị định nào không còn cần thiết thì phải bãi bỏ cả đạo luật, cả nghị định. Tinh giảm luật lệ - đấy là cái tinh thần thứ nhất.
Tinh thần thứ hai, là câu chuyện thực thi pháp luật. Việc xử lý trách nhiệm của doanh nghiệp dùng những biện pháp phù hợp với tính chất của vụ việc kinh tế. Xử lý vụ việc mang tính chất kinh tế, hành chính thì phải tách bạch với hình sự.
Khi xử lý phải tách bạch giữa tài sản, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của cá nhân người quản lý doanh nghiệp và doanh nghiệp. Có những vụ việc thì khi xử lý một cá nhân vô hình chung chúng ta đánh đồng với cả doanh nghiệp và dẫn đến việc không phân biệt được đâu là tài sản cá nhân, đâu là tài sản của doanh nghiệp, nên dẫn đến xử lý một cá nhân làm ảnh hưởng đến cả hoạt động của doanh nghiệp. Mà doanh nghiệp có lỗi gì đâu, thậm chí nhiều khi doanh nghiệp là do một cá nhân lợi dụng hình ảnh của doanh nghiệp.
Lần này Nghị quyết quy định rất rõ. Các phương tiện thông tin, báo chí khi đưa tin các vụ việc cũng phải hết sức cẩn trọng, tránh đánh đồng một người quản lý doanh nghiệp, với một doanh nghiệp, với hình ảnh, thương hiệu của một doanh nghiệp hoạt động toàn cầu.
Về tư tưởng thứ ba trong cải cách thể chế, nếu bây giờ bỏ quy định, luật lệ, nhiều người sẽ hỏi: Thế thì quản lý nhà nước bằng gì? Ai đó không chịu cải cách thì lại viện dẫn những điều này. Ở đây chúng ta phải hiểu rõ Nghị quyết 68 thay đổi tư duy quản lý nhà nước, sử dụng những công cụ phù hợp cần thiết để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Thế thì công cụ quản lý nhà nước hiệu quả đã được chứng minh là gì? Đó là không phải ngồi ở bàn giấy cấp ra một giấy phép, chứng nhận một sản phẩm đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Vấn đề là phải giám sát sản phẩm được bán ra thị trường. Vậy thay vì chúng ta ngồi bàn giấy cấp giấy phép thì tại sao không dành thời gian đi giám sát và kiểm soát thực sự chất lượng của sản phẩm. Nếu như chúng ta làm như vậy thì tôi nghĩ rằng là một số vụ việc vừa qua cũng có thể tránh được.
Cơ chế quan trọng nhất đối với thị trường là duy trì trật tự cạnh tranh, xử lý nghiêm những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi lạm dụng, chống độc quyền chứ không phải là ban hành quy định để bắt doanh nghiệp phải làm thế này, thế kia. Tư duy quản lý nhà nước có thay đổi. Chúng ta phải hiểu đừng có đưa ra lý do là cứ bãi bỏ quy định là mất công cụ quản lý.
Chúng ta phải hiểu tinh thần của Nghị quyết là thay đổi toàn diện. Trước đây chúng ta gọi là quản lý bằng mọi giá, tức là đưa ra một cái công cụ quản lý, thậm chí rất tốn kém nhiều chi phí cho cả xã hội, cho người dân thì bây giờ phải quản lý bằng một cách hiệu quả nhất, không phải quản lý bằng mọi giá.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Cảm ơn anh Phan Chí Hiếu đã phân tích rất sâu. Chúng ta phải biến thể chế của chúng ta thành lợi thế cạnh tranh của đất nước. Về luật thì luật chúng ta phải tốt hơn các nước. Về thực thi luật thì chúng ta phải thực thi luật tốt hơn các nước thì lúc đấy mới trở thành lợi thế cạnh tranh. Còn luật có tốt mà thực thi không tốt thì thể chế cũng không thành lợi thế cạnh tranh.
Bây giờ cả bộ máy phải phấn đấu để pháp luật và thể chế trở thành lợi thế cạnh tranh của đất nước và tôi nghĩ là cái thông điệp đó rất mạnh, truyền cảm hứng.
Thứ hai là đổi mới, theo anh Hiếu nói, văn kiện nêu rất rõ, tức là chuyển từ quản lý sang đồng hành, chuyển từ quản lý sang tạo điều kiện. Trước đây sinh ra luật lệ, sinh ra bộ máy để quản lý. Bây giờ sinh ra bộ máy để đồng hành, để hỗ trợ cho phát triển. Nếu như vậy thì phải bỏ rất nhiều thứ và anh Hiếu nói rất đúng.
Ông Phan Đức Hiếu: Xin bổ sung, ttôi luôn luôn mong mỏi có một thể chế cạnh tranh ở khu vực. Có nghĩa là một ý tưởng kinh doanh nào mà không thể thực hiện được ở nước nào khác nhưng có thể thực hiện ở Việt Nam, đấy mới là thể chế cạnh tranh. Chứ có những ý tưởng kinh doanh mà chỉ làm được ở nơi khác mà không làm được ở nước ta thì thể chế chưa cạnh tranh.
Nguồn tin: baochinhphu.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn