Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam được tổ chức hôm nay (22/12/2023) là Hội nghị đầu tiên, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam
- Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Đây có thể coi là 'hội nghị Diên Hồng' về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, diễn ra theo hình thức trực tiếp tại trụ sở Chính phủ và kết nối trực tuyến tới trụ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; các điểm cầu tại trụ sở UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Cùng dự và điều hành Hội nghị có Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà; đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành liên quan; lãnh đạo các hội, hiệp hội, tổ chức; đại diện Văn phòng UNESCO tại Việt Nam; lãnh đạo các tổ chức, doanh nghiệp, cơ quan hoạt động trong các lĩnh vực liên quan đến công nghiệp văn hóa; cùng các chuyên gia, nghệ sĩ hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa.
Hội nghị đầu tiên, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
Thủ tướng: Nói về công nghiệp văn hóa là đề cập đến các ngành công nghiệp sản xuất ra các sản phẩm mang tính nghệ thuật và sáng tạo, có bản chất vật thể hoặc phi vật thể; thông qua khai thác những giá trị văn hóa cùng những sản phẩm và dịch vụ có tính trí tuệ, có ý nghĩa xã hội và văn hoá để thu về những nguồn lợi kinh tế - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ: Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam được tổ chức hôm nay là Hội nghị đầu tiên, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam.
Văn hoá Việt Nam là kết tinh thành quả hàng nghìn năm văn hiến, lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn hóa thế giới để không ngừng hoàn thiện mình và phát triển. Văn hoá Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh, con người Việt Nam anh hùng, mến khách, yêu quý bạn bè, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Thủ tướng cho biết: Nói về công nghiệp văn hóa là đề cập đến các ngành công nghiệp sản xuất ra các sản phẩm mang tính nghệ thuật và sáng tạo, có bản chất vật thể hoặc phi vật thể; thông qua khai thác những giá trị văn hóa cùng những sản phẩm và dịch vụ có tính trí tuệ, có ý nghĩa xã hội và văn hoá để thu về những nguồn lợi kinh tế.
Trên thế giới, phát triển công nghiệp văn hóa đang diễn ra mạnh mẽ, là xu thế và dần trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia. Việt Nam được đánh giá có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển công nghiệp văn hoá.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành và triển khai hiệu quả nhiều chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật để phát triển văn hóa và công nghiệp văn hóa:
- Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 của Trung ương xác định: "Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội…".
- Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 đề ra mục tiêu, yêu cầu: "Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam".
- Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 do Chính phủ ban hành đã khẳng định quan điểm: "Các ngành công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa nguồn lực từ các doanh nghiệp và xã hội để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa". Chiến lược xác định 12 lĩnh vực của Công nghiệp văn hóa; đồng thời đề ra mục tiêu triển khai các lĩnh vực này đến năm 2030.
- Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ: "Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hoá và dịch vụ văn hoá trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hoá Việt Nam".
- Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu 6 nhiệm vụ lớn, trong đó: "khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hoá, xây dựng thị trường văn hoá lành mạnh".
Để công nghiệp văn hóa nước ta sớm phát triển nhanh, bền vững, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh, cần có sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức, tư duy đến hành động, đổi mới tư duy, đột phá trong cách làm - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng nhận định: Với sự đặc biệt quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự vào cuộc của các cấp, các ngành, các địa phương, thời gian qua các ngành công nghiệp văn hóa dần trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng; sự đầu tư nguồn vốn vào các ngành công nghiệp văn hóa đã thúc đẩy thị trường công nghiệp văn hóa có những bước tiến mới, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, so với một số ngành khác thì các ngành công nghiệp văn hóa nước ta vẫn chưa phát huy được hết tiềm năng, lợi thế.
Thủ tướng nêu rõ, để công nghiệp văn hóa nước ta sớm phát triển nhanh, bền vững, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh, cần có sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức, tư duy đến hành động, đổi mới tư duy, đột phá trong cách làm, xây dựng ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam "Sáng tạo - Bản sắc - Độc đáo - Chuyên nghiệp - Cạnh tranh", trên nền tảng văn hóa "Dân tộc – Khoa học – Đại chúng" của Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943.
Tại Hội nghị hôm nay, Thủ tướng đề nghị các đồng chí trao đổi, thảo luận, chia sẻ với tinh thần thẳng thắn, trách nhiệm, tập trung vào một số nội dung chính:
Thứ nhất, đánh giá, phân tích kỹ lưỡng những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế trong phát triển văn hóa và công nghiệp văn hóa thời gian qua (cố gắng nêu rõ số liệu minh chứng cụ thể); nêu rõ nguyên nhân, bài học kinh nghiệm. Nhận diện thời cơ, thách thức của công nghiệp văn hóa Việt Nam trong thời gian tới. Chúng ta có thể học tập được gì từ những quốc gia đã thành công trong phát triển công nghiệp văn hóa?
Thứ hai, đề xuất những giải pháp cụ thể, khả thi, đột phá, trong đó:
- Giải pháp, lộ trình tháo gỡ những bất cập hiện nay, nhất là trong cơ chế, chính sách? (về thu hút nguồn lực xã hội; tăng cường liên kết, phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa công và tư; việc bảo hộ và thực thi hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ; những chính sách về khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi về hạ tầng, công nghệ, vốn, thuế, đầu tư; thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số…). Theo đó, cần triển khai đồng bộ các giải pháp về quy hoạch, thị trường, khoa học công nghệ, huy động sự tham gia của doanh nghiệp, ngân hàng, thu hút nguồn lực hợp tác công tư.
- Những sản phẩm, dịch vụ nào cần tập trung đầu tư để tạo hiệu quả và sức lan tỏa cao? Phát triển thương hiệu quốc gia trong các lĩnh vực công nghiệp văn hóa như thế nào?
- Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp văn hóa cả về số lượng và chất lượng?
- Có cần xây dựng một Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa cho giai đoạn mới với tầm nhìn dài hạn, giải pháp đồng bộ hơn?
Đồng thời, Thủ tướng đề nghị các đại biểu cho ý kiến về đề xuất của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành, quy định phù hợp sau Hội nghị.
Thời gian của Hội nghị không nhiều, trong khi đây là một lĩnh vực mới, nhạy cảm, có độ bao phủ rộng, tác động lớn, nếu làm được thì rất hiệu quả. Nhận định sau 2 năm triển khai Hội nghị văn hóa toàn quốc, tư duy, nhận thức, hành động với văn hóa đã khác hẳn, tạo ra nguồn lực mới cho phát triển đất nước, đặc biệt nhiều địa phương rất chủ động, Thủ tướng đề nghị các đại biểu phát biểu ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề.
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng báo cáo về thực tế phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Báo cáo tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng, cho biết:
Nhìn lại chặng đường 7 năm triển khai Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam (Chiến lược 1755), với sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương, sự đồng hành của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, công tác phát triển các ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam đã đạt được một số kết quả nổi bật:
- Về đóng góp của các ngành công nghiệp văn hoá vào GDP: Năm 2015, các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 2,68% GDP. Sau 3 năm 2016, 2017, 2018 triển khai Chiến lược 1755: năm 2018, 12 ngành công nghiệp văn hóa đóng góp khoảng 3,61% GDP. Trong giai đoạn từ năm 2018 - 2022, giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đóng góp ước đạt 1,059 triệu tỷ đồng (44 tỷ USD).
Trong 5 năm qua, bình quân tốc độ tăng trưởng về số lượng các cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa đạt 7,21%/năm. Chỉ tính riêng năm 2022, thống kê có khoảng 70.321 cơ sở đang hoạt động có liên quan đến ngành công nghiệp văn hóa và bình quân lực lượng lao động thu hút khoảng 1,7 triệu đến 2,3 triệu người, tăng 7,44%/năm.
So sánh số liệu thống kê sau 07 năm của chúng ta với tình hình chung trên thế giới, có thể thấy, Việt Nam đang là quốc gia tầm trung về phát triển công nghiệp văn hoá và còn nhiều dư địa phát triển.
- Về đóng góp của các ngành công nghiệp văn hoá đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
+ Với đặc trưng sáng tạo và công nghệ, công nghiệp văn hóa đang mang đến sự thay đổi cơ cấu của các ngành có liên quan, tiếp đó là sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế.
+ Sự xuất hiện của các trung tâm công nghiệp văn hóa, các thành phố sáng tạo đã và đang làm thay đổi cơ cấu vùng kinh tế.
+ Các doanh nghiệp văn hóa, bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngày càng xuất hiện nhiều hơn.
Sự thay đổi này đã tạo nên các kết quả đáng ghi nhận ở cả 12 ngành (giai đoạn 2018-2022: Đối với kiến trúc: giá trị gia tăng bình quân tăng 7,37%; Đối với thiết kế: Giá trị gia tăng của bình quân tăng 6,36%; Đối với thời trang: giá trị gia tăng bình quân tăng 7,3%; Đối với điện ảnh: giá trị gia tăng bình quân 7,94%...)
- Về đóng góp của các ngành công nghiệp văn hoá trong công tác quảng bá hình ảnh, bản sắc và gia tăng sức hấp dẫn, thuyết phục của sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam:
+ Hà Nội, Đà Lạt, Hội An là 03 thành phố của Việt Nam đã gia nhập Mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO, trong đó Hà Nội trở thành thành phố Thiết kế sáng tạo, Đà Lạt thành phố sáng tạo âm nhạc và Hội An thành phố thủ công và nghệ thuật dân gian.
Sự xuất hiện của 03 thành phố sáng tạo trên bản đồ các thành phố sáng tạo toàn cầu là một căn cứ vững vàng để Việt Nam có thể xác định mục tiêu trong giai đoạn tiếp theo là trở thành trung tâm công nghiệp văn hóa thu hút và hội tụ sự sáng tạo tại khu vực Đông Nam Á.
+ Công ước 2005 bảo vệ phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hoá của UNESCO được thông qua năm 2005, có hiệu lực từ tháng 3-2007. Với tư cách là thành viên có trách nhiệm của UNESCO, đã thể hiện sự đóng góp tích cực bằng hành động thông qua việc ban hành Chiến lược 1755; trúng cử và đảm nhiệm thành công vai trò Phó Chủ tịch Ủy ban liên Chính phủ và Phó Chủ tịch Đại hội đồng Công ước UNESCO nhiệm kỳ (2011-2015). Gần đây nhất, ngày 22/11/2023, Việt Nam đã trúng cử thành viên Uỷ ban Di sản Thế giới nhiệm kỳ 2023-2027 với số phiếu rất cao.
+ Việt Nam lần thứ 4 được vinh danh là Điểm đến Di sản hàng đầu Thế giới tại Lễ trao Giải thưởng Du lịch Thế giới năm 2023 sau các năm 2019, 2020, 2022. Điều đó cho thấy những giá trị nổi bật toàn cầu và sức hấp dẫn của du lịch văn hoá - một trong 12 ngành công nghiệp văn hoá đối với cộng đồng quốc tế.
Những kết quả nổi bật nêu trên có được từ sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự chủ động, phối hợp chặt chẽ, tích cực triển khai nhiệm vụ của các bộ, ngành địa phương trong quá trình tổ chức thực hiện Chiến lược 1755:
- Về công tác hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách: Trong giai đoạn 2018 - 2022, các bộ, ngành đã rà soát, đề xuất Quốc hội, Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình quản lý các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam; cải thiện điều kiện kinh doanh sản phẩm, dịch vụ văn hóa, thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam: Luật Du lịch 2017; Luật Kiến trúc 2019; Luật Xây dựng sửa đổi 2020; Luật Điện ảnh 2022, Luật Sở hữu trí tuệ 2022...
- Về đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức: Các bộ, ngành và địa phương đã tích cực triển khai phổ biến, hướng dẫn, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ và người dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. Một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát triển công nghiệp văn hóa, như: Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng ...
- Về công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực: Một số mô hình tổ chức đạo tạo liên quan đến các ngành công nghiệp văn hóa đã được thực hiện theo hướng chuyên nghiệp, bài bản. Nhiều chương trình, giáo trình đào tạo ngày càng được hoàn thiện phù hợp với trình độ học. Chính sách đối với giảng viên, nhà giáo tham gia đào tạo, nhất là các ngành nghệ thuật đặc thù từng bước được quan tâm...
- Về việc ứng dụng khoa học và công nghệ: Các Bộ, ngành, địa phương đã và đang xây dựng, hoàn thiện khung dữ liệu cơ bản phục vụ cho hoạt động của các ngành công nghiệp văn hóa. Đồng thời, các tổ chức, doanh nghiệp đã linh hoạt ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến để phát triển đa dạng, hiện đại các sản phẩm dịch vụ văn hóa và tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị văn hóa toàn cầu.
- Về việc phát triển thị trường các ngành công nghiệp văn hóa: Nhiều địa phương đã xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất để phục vụ hoạt động liên quan đến công nghiệp văn hóa tại các điểm có di sản, di tích quốc gia đặc biệt, các bảo tàng, nhà văn hóa, làng nghề thủ công truyền thống, khu vui chơi giải trí…
- Về hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế: Các hoạt động ngoại giao văn hóa, chương trình, đề án về kết nối, giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa được tổ chức thường niên đã thúc đẩy các hoạt động giới thiệu, xúc tiến, quảng bá sản phẩm công nghiệp văn hóa, thu hút sự quan và nguồn đầu tư cho các ngành công nghiệp văn hóa, từ đó tăng cường sự liên kết, hợp tác giữa Việt Nam với các đối tác, doanh nghiệp nước ngoài.
Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bên cạnh kết quả đạt được, việc phát triển các ngành công nghiệp văn hoá vẫn còn nhiều bất cập và thách thức đặt ra như:
- Hiện nay, chưa có một văn bản pháp luật (luật, nghị định) quy định thực hiện nội dung quản lý nhà nước về công nghiệp văn hoá. Đồng thời, còn thiếu các cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp về thu hút nguồn vốn, phát triển nguồn lực để hỗ trợ, thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa phát triển toàn diện trên cả nước nói chung và ở từng địa phương nói riêng.
- Nguồn lực đầu tư mang tính dàn trải, chưa có trọng tâm, trọng điểm, chưa tập trung phát triển một số lĩnh vực chuyên ngành có lợi thế, tiềm năng nhằm tạo ra các sản phẩm chủ lực, trọng tâm phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
- Nguồn nhân lực trong các ngành công nghiệp văn hóa còn thiếu về số lượng và chất lượng. Chính sách đãi ngộ, thu hút nguồn nhân lực trong các ngành công nghiệp văn hóa còn chưa thực sự khuyến khích và thu hút nhân lực vào lĩnh vực này.
- Chưa có Chỉ số thống kê về ngành công nghiệp văn hoá trong hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia. Thống kê của các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan có liên quan mới chỉ đáp ứng yêu cầu báo cáo phục vụ công tác quản lý, chưa được thực hiện toàn diện và đầy đủ dẫn đến việc đề xuất giải pháp phát triển của từng lĩnh vực chưa kịp thời và sát thực tế.
- Nội dung, hình thức các sản phẩm, dịch vụ trong các ngành công nghiệp văn hóa (phần mềm, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, kiến trúc, thời trang…) chưa thực sự khai thác được hết các đặc trưng văn hoá bản địa để tạo sự độc đáo, riêng có trong các sản phẩm, dịch vụ qua đó nâng cao giá trị sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh, hấp dẫn khách hàng trong nước và quốc tế.
- Một số bộ phận doanh nghiệp và nhân dân chưa thực sự quan tâm đến vấn đề bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan nên việc vi phạm và xâm phạm thời gian qua đã tác động trực tiếp đến những người làm sáng tạo, đồng thời gây cản trở cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa.
- Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa chưa thường xuyên, chặt chẽ, đồng bộ.
Những bất cập, hạn chế, khó khăn đến từ nhiều nguyên nhân, hạn chế khách quan và chủ quan như:
- Ngành công nghiệp văn hóa có phạm trù lớn, bao gồm đa ngành, nhiều lĩnh vực có nội hàm rộng nhưng chưa được cụ thể hoá, do vậy gặp khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện. Nhiều cơ quan, đơn vị cùng tham gia quản lý, do vậy chưa có giải pháp phát triển tổng thể.
- Các ngành công nghiệp văn hóa là nhóm ngành dễ bị tác động bởi các yếu tố tác động bên ngoài. Nhiều sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa của Việt Nam hiện nay chưa đưa được hết các giá trị cốt lõi, bản sắc văn hóa dân tộc. Nhiều doanh nghiệp Việt chưa đề cao xây dựng giá trị thương hiệu cho các sản phẩm, dịch vụ và các yếu tố pháp lý liên quan đến bảo vệ bản quyền.
- Việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào các hoạt động sáng tạo văn hóa, sản xuất các sản phẩm và dịch vụ văn hóa chưa được nhiều nhà đầu tư quan tâm, do nguồn vốn chi cho đầu tư sáng tạo lớn nhưng khả năng thu hồi vốn chậm, nhỏ lẻ và tiềm ẩn nhiều rủi ro từ cơ chế, chính sách, phương pháp quản lý, đến ứng xử của cộng đồng, xã hội đối với từng sản phẩm công nghiệp văn hoá.
- Việt Nam có một thị trường nội địa tiềm năng với dân số trẻ, cởi mở, dễ tiếp cận, tuy nhiên đối tượng này chưa hình thành thói quen, ý thức trong việc tôn trọng, bảo vệ và phát triển các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hoá của Việt Nam một cách toàn vẹn, khai thác, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tuân thủ đúng quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
- Đầu tư tài chính cho văn hóa trong đó có công nghiệp văn hóa từng bước được nâng lên nhưng hiện tại còn thấp hơn so với nhu cầu.
Ngày hôm nay, tại Hội nghị cấp quốc gia với sự chỉ đạo sâu sắc của Thủ tướng và sự có mặt của đại diện các bộ, ban ngành, địa phương, các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức quốc tế, các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, cộng đồng sáng tạo, các cơ quan truyền thông, nhằm mục đích tìm ra những giải pháp, sáng kiến để thúc đẩy nhanh sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam theo hướng hiệu quả, bền vững và hội nhập, Bộ VHTTDL xin đề xuất một số mục tiêu trọng tâm sau đây:
Một là, Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam trở thành ngành kinh tế quan trọng, trong đó tập trung phát triển có trọng tâm, trọng điểm một số ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng, lợi thế nhằm đạt mục tiêu các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP và tiếp tục góp phần phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Hai là, Xây dựng và phát triển các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa đa dạng, chất lượng cao dựa trên yếu tố đổi mới, sáng tạo, văn hóa truyền thống và tôn trọng bản quyền; nâng cao giá trị của các sản phẩm, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
Ba là, Xác định lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm phát triển công nghiệp văn hóa dựa trên lợi thế sẵn có của Việt Nam, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế.
Hình thành các trung tâm công nghiệp văn hóa trọng điểm, như tại TP. Hà Nội, TP. Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh; định hình, mở rộng và phát triển mạng lưới các thành phố sáng tạo trên cả nước (Quảng Ninh, Quảng Nam, Kiên Giang, Huế, Đà lạt…).
Về một số giải pháp:
Thứ nhất, cần quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, địa phương và toàn xã hội về vai trò, vị trí của công nghiệp văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện khung khổ pháp lý để tạo cơ sở pháp lý, "khơi thông" nguồn lực thúc đẩy công nghiệp văn hoá phát triển trong thời kỳ hội nhập quốc tế như chính sách ưu đãi về vốn, khuyến khích sáng tạo đối với văn nghệ sĩ, các doanh nghiệp khởi nghiệp…
Thứ ba, phát triển công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở vận dụng có hiệu quả các giá trị và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới thông qua hoạt động giao lưu, hợp tác, liên doanh, liên kết với các quốc gia có nền công nghiệp văn hoá phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc…
Thứ tư, tập trung xây dựng mạng lưới các doanh nghiệp sáng tạo, có thương hiệu, đủ sức cạnh tranh ở những lĩnh vực Việt Nam có tiềm năng, thế mạnh như phần mềm, thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật biểu diễn…tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa có chất lượng cao tham gia thị trường văn hóa trong nước và quốc tế.
Thứ năm, chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực phát triển các ngành công nghiệp văn hoá thông qua các Trường, thông qua liên kết với các doanh nghiệp, chương trình hợp tác với các đối tác quốc tế.
Thứ sáu, bổ sung Chỉ số thống kê về ngành công nghiệp văn hoá vào hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, để trên cơ sở dữ liệu này, có chính sách đầu tư, lộ trình phát triển phù hợp đối với toàn ngành công nghiệp văn hóa nói chung và từng ngành công nghiệp văn hoá nói riêng.
Quá trịnh triển khai đòi hỏi sự phối hợp chủ động, thường xuyên, chặt chẽ, giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa các lĩnh vực trong công tác quy hoạch, xây dựng các chương trình, đề án, dự án phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Tại Hội nghị này, Bộ VHTT&DL xin được lắng nghe những ý kiến đề xuất, trao đổi thẳng thắn và tích cực của các quý vị đại biểu, cộng đồng doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp văn hoá, đặc biệt là ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ về những vấn đề trọng tâm, cốt yếu để Bộ VHTT&DL cùng các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện, phát huy tối đa vai trò, vị trí và sứ mệnh của các ngành công nghiệp văn hóa trong phát triển đất nước.
TS. Đoàn Thanh Nô, Phó Chủ tịch Thường trực , Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
TS. Đoàn Thanh Nô, Phó Chủ tịch Thường trực , Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam: Hiện nay, công nghiệp văn hóa đang đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự đa dạng sáng tạo trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, đem lại nhiều cơ hội mới cho văn nghệ sĩ. Năm 2016, Chính phủ phê duyệt 12 lĩnh vực công nghiệp văn hóa, trong đó, kiến trúc, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm là những ngành nghệ thuật. Trong đó, điện ảnh được xem là lĩnh vực nghệ thuật mũi nhọn.
Nhiều tác phẩm văn học được chuyển ngữ, xuất bản ở nước ngoài được tiêu thụ khá tốt, được chuyển thể kịch bản thành những bộ phim ăn khách. Trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, Nhà hát múa rối Thăng Long diễn kín lịch mỗi ngày phục vụ du khách trong và ngoài nước. Việt Nam cũng trở thành điểm đến của nhiều nghệ sĩ, ban nhạc nổi tiếng thế giới. Lĩnh vực kiến trúc, điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, âm nhạc, múa, văn nghệ dân gian, văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số… đã có những thành tựu xuất sắc, góp phần vào sự nghiệp phát triển văn học nghệ thuật nước nhà, đóng góp đáng kể vào quá trình công nghiệp văn hóa ở nước ta.
Sáng tạo tác phẩm là khâu đầu tiên, là chất liệu đầu vào quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, vì văn học nghệ thuật là kết tinh của trí tuệ, sáng tạo sẽ trở thành tài sản hữu ích khi tham gia vào thị trường văn hoá. Với lẽ đó, văn học nghệ thuật thực sự còn rất nhiều tiềm năng, lợi thế chưa được phát huy đúng mức để phát triển công nghiệp văn hoá. Đặc biệt trong môi trường số và văn học nghệ thuật đang có sự tương tác mạnh mẽ và thú vị trong thời đại số, quốc gia số...
Ở Việt Nam hiện nay, không gian sáng tạo số đã đem lại nhiều cơ hội mới cho các tác giả để tạo ra những tác phẩm văn chương độc đáo, tinh tế và hấp dẫn. Sự phát triển của internet và các công cụ kỹ thuật số đã tiếp thêm động lực cho sự phát triển của các sản phẩm văn học nghệ thuật. Truyện tranh số, truyện tranh động, sách điện tử, sách 3D, 2D và trò chơi điện tử đang được phát triển mạnh mẽ với sự hỗ trợ của không gian sáng tạo số. Sự ra đời của các nền tảng như Kindle, iBooks…, đã giúp cho quá trình xuất bản sách điện tử, sách công nghệ dễ dàng hơn. Các trang web cung cấp cho các tác giả môi trường để chia sẻ tác phẩm của họ với cộng đồng độc giả trực tuyến. Các trò chơi điện tử cũng có sức hấp dẫn đặc biệt với các tác giả, các trò chơi thường có cốt truyện cuốn hút, dẫn dắt người chơi đến tận cùng của giá trị chân-thiện-mỹ, nhất là giới trẻ.
Trong Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đệ trình lên các cơ quan có thẩm quyền xem xét phê duyệt. Nhiều dự án, chương trình khả thi được đề cập như: Phổ biến tác phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật thông qua các sản phẩm vui chơi giải trí trên môi trường số, nhiều chương trình quan trọng khác về điện ảnh, kiến trúc, nhiếp ảnh, âm nhạc, múa, sân khấu, mỹ thuật...
Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam đánh giá rất cao về Chương trình này, chúng tôi xem đây là nguồn lực, là sản phẩm đầu vào của quá trình công nghiệp văn hóa, là chất liệu cần thiết để sản xuất, thương mại, và tiêu dùng trong chuỗi công nghiệp văn hóa.
Nâng cao giá trị tác phẩm văn học nghệ thuật trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay là một tất yếu khách quan để văn nghệ sĩ dấn thân vào lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Nhưng môi trường số có nhiều thuận lợi, cũng không ít thách thức, ví dụ như vấn đề bản quyền và sự phụ thuộc vào công nghệ.
Đây là một thách thức lớn. Để bảo vệ tác phẩm trực tuyến khỏi việc sao chép trái phép, cần áp dụng các biện pháp bảo vệ như sử dụng Luật Bản quyền, chuẩn hóa các quy tắc về việc sử dụng tác phẩm và sự tăng cường kiểm tra, giám sát thường xuyên của các cơ quan chức năng. Trong khi đó, các quy định pháp luật, các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm của mỗi quốc gia lại có những điểm khác nhau, vì vậy, căn cứ để xử lý các hành vi vi phạm bản quyền trên nền tảng số cũng không giống nhau.
Để khắc phục tình trạng bất cập nói trên, tôi xin đề xuất các giải pháp sau:
Trước hết, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền của các quốc gia cũng như sự hợp tác của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian.
Mặt khác, các nền tảng số trung gian hoạt động tại Việt Nam cũng còn nhiều lỗ hổng và bất cập, chưa hoàn toàn tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam đã góp phần dẫn đến các hành vi vi phạm nghiêm trọng trong hoạt động xóa, gỡ nội dung vi phạm bản quyền.
Về phần mình, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam sẽ tiếp tục tuyên truyền phố biến chủ trương, chính sách của Nhà nước về văn hóa nói chung và công nghiệp văn hóa nói riêng để các tổ chức thành viên, thúc đẩy các hội viên đổi mới sáng tạo, trong đó tập trung: các tác phẩm văn học nghệ thuật thể hiện sự đa dạng về chủ đề, đề tài, nhất quán về quan điểm; khuyến khích các tác giả thử nghiệm các ý tưởng mới, tạo ra những tác phẩm độc đáo với phong cách riêng biệt, đậm đà bản sắc dân tộc.
Về phía Nhà nước, cần sớm hoàn thiện pháp luật, thể chế hóa chính sách, thúc đẩy nguồn lực xã hội đầu tư vào cơ sở hạ tầng, hỗ trợ tài chính cho văn học nghệ thuật và văn nghệ sĩ ở mức cần thiết. Điều này sẽ tạo ra môi trường thúc đẩy sáng tạo nhằm tạo ra những tác phẩm có giá trị tham gia vào quá trình công nghiệp văn hóa.
Cho phép thiết lập cầu nối giữa Liên hiệp với các tổ chức thành viên, nghệ sĩ trong nước và quốc tế trong việc thúc đẩy phát triển công nghiệp sáng tạo, tăng cường giao lưu văn hóa, nghệ thuật giữa các quốc gia.
Để phát huy vai trò của đội ngũ văn nghệ sĩ trong quá trình thực hiện công nghiệp văn hóa, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền cho phép Liên hiệp và các tổ chức thành viên thông qua Quỹ Hỗ trợ sáng tạo Văn học nghệ thuật Việt Nam được quyền khai thác các sản phẩm văn học nghệ thuật đã được số hóa, chuẩn hoá tham gia vào quá trình công nghiệp văn hóa, nguồn thu từ việc khai thác dữ liệu số mang lại sẽ đầu tư vào sự nghiệp phát triển văn học nghệ thuật nước nhà, nhằm chia sẻ gánh nặng ngân sách cùng Chính phủ.
Phát triển công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực văn học nghệ thuật là đề tài rộng, nội hàm phong phú. Bản thân chúng tôi chưa có nhiều kinh nghiệm nhưng với tấm lòng yêu tổ quốc, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, chúng tôi quyết tâm vượt qua khó khăn thách thức, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ khi được giao trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa ở nước ta hiện nay.
Ông Lưu Duy Dần, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam: Nơi nào làng nghề phát triển tốt, nơi đó an ninh trật tự tốt, ít có sai phạm, ít có thanh niên hư hỏng và tạo được việc làm cho thanh niên - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Ông Lưu Duy Dần, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam: Hiện nay chúng tôi có hơn 5.400 làng nghề rải khắp các tỉnh, đặc biệt ở thủ đô Hà Nội với đủ các ngành khác nhau. Số nghệ nhân được phong tặng ngày càng phát triển và họ đều cần được phát huy để đảm bảo phát triển mẫu mã mới và phát triển du lịch ở mỗi làng nghề và các địa phương.
Chúng tôi đã có một Đại hội lớn và đưa ra chủ đề: Kết nối cộng đồng làng nghề, bảo tồn văn hóa, phát triển du lịch, đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế.
Nếu như làng nghề không bám vào văn hóa và không nắm được du lịch thì làng nghề sẽ không hợp với sự hội nhập của chúng ta. Phần lớn các làng nghề hiện nay ngoài sản phẩm ra, còn có những hoạt động bổ trợ khác về văn hóa.
Nơi nào làng nghề phát triển tốt, nơi đó an ninh trật tự tốt, ít có sai phạm, ít có thanh niên hư hỏng và tạo được việc làm cho thanh niên.
Chúng tôi cũng mong BộVHTT&DL tiếp tục quan tâm, biểu dương và động viên, nhất là việc phong tặng các danh hiệu Nghệ nhân.
Bà Nguyễn Thái Hoàng Anh, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Sun Group: Cần coi nhiệm vụ Quy hoạch phát triển công nghiệp văn hóa, cũng như xây dựng kế hoạch triển khai Quy hoạch này trong từng thời kỳ, là nhiệm vụ tiên quyết, là định hướng chiến lược tổng thể cho ngành du lịch Việt Nam - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bà Nguyễn Thái Hoàng Anh, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Sun Group: Trải qua 16 năm hình thành và phát triển, Tập đoàn Sun Group kiên định với các lĩnh vực chính: Du lịch nghỉ dưỡng – Vui chơi giải trí – Bất động sản cao cấp và Hạ tầng giao thông. Với tôn chỉ "làm đẹp những vùng đất", Tập đoàn Sun Group luôn cố gắng phát triển, sáng tạo các sản phẩm du lịch bền vững, hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo tồn, phát huy giá trị của dân tộc, giữ gìn bản sắc của con người và thiên nhiên tại những vùng đất nơi Tập đoàn đặt chân tới.
Tại Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa hôm nay, Tập đoàn Sun Group đề xuất các giải pháp như sau.
Cần coi nhiệm vụ Quy hoạch phát triển công nghiệp văn hóa, cũng như xây dựng kế hoạch triển khai Quy hoạch này trong từng thời kỳ, là nhiệm vụ tiên quyết, là định hướng chiến lược tổng thể cho ngành du lịch Việt Nam.
Quy hoạch công nghiệp văn hóa không chỉ dành cho một nhóm ngành nghề, một thành phố, một tỉnh mà cần nghiên cứu kỹ lưỡng, bài bản trong phạm vi cả nước, sau đó, phân rã tới từng vùng, tỉnh, đơn vị. Đồng thời, Quy hoạch phát triển công nghiệp văn hóa cũng cần đồng bộ, phù hợp với các quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh và các loại quy hoạch khác.
Đối với Quy hoạch phát triển công nghiệp văn hóa, cần có cơ chế xã hội hóa huy động nguồn vốn thực hiện, kêu gọi các ý tưởng, nghiên cứu bài bản từ quy hoạch không gian văn hóa, phát triển các sản phẩm, quy hoạch ngành nghề phát huy giá trị văn hóa, du lịch đồng thời phát triển các ngành nghề phụ trợ để có hệ sinh thái hoàn chỉnh.
Về cơ chế chính sách, hầu hết các địa phương đều ủng hộ việc phát triển du lịch văn hóa và kêu gọi các nhà đầu tư quan tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên, trong thực tế, các dự án về du lịch, văn hóa là những dự án đòi hỏi các nhà đầu tư quan tâm chấp nhận việc đầu tư tài chính dài hạn, với thời gian thu hồi vốn chậm. Cần có cơ chế, chính sách cụ thể nhằm thu hút các nhà đầu tư trong lĩnh vực này, ví dụ như về cơ chế ưu đãi về thuế, tiền sử dụng đất, cơ chế khuyến khích đối với các nhà đầu tư tham gia đầu tư lĩnh vực du lịch, văn hóa và hạ tầng kết nối.
Bên cạnh đó, với mong muốn nghiên cứu, đầu tư và xây dựng công trình kiến trúc mang dấu ấn vượt thời gian tại Thủ đô Hà Nội, Tập đoàn Sun Group đã chủ động liên hệ với Kiến trúc sư huyền thoại người Italy Renzo Piano để đề xuất thiết kế công trình văn hóa đẳng cấp dành riêng cho Hà Nội. Kiến trúc sư đại tài này đã tốn nhiều năm lên ý tưởng, dựa trên vẻ đẹp, văn hóa lịch sử của Hà Nội cũng như những huyền tích của Hồ Tây, của những câu chuyện văn hóa cổ xưa vào việc thiết kế nhà hát, đồng thời, kết hợp với vật liệu thiết kế, xây dựng và thiết bị hiện đại hàng đầu thế giới.
Chúng tôi tin tưởng, nếu được triển khai Nhà hát tại khu vực bán đảo Quảng An, thì đây không đơn thuần là một công trình kiến trúc văn hóa đẳng cấp, biểu tượng của Thủ đô thời kỳ mới, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật mang linh hồn Hà Nội. Tuy nhiên, tới nay, dù các cấp chính quyền đã hết sức nỗ lực, dự án vẫn đang nằm trên bản vẽ. Chúng tôi đề xuất có những cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy để triển khai công trình văn hóa mang tầm thế giới tại Thủ đô nghìn năm văn hiến.
Về vấn đề nguồn nhân lực, để phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa đẳng cấp – chất lượng – khác biệt đòi hỏi nguồn nhân lực tại chỗ chất lượng cao, am hiểu văn hoá dân tộc cũng như, cần đáp ứng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Thực tế, những nơi có tiềm năng phát triển văn hoá du lịch lại là những vùng sâu vùng xa, trình độ phát triển còn thấp.
Tập đoàn Sun Group chú trọng tới việc tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, cũng như sử dụng lực lượng lao động là người địa phương, người dân tộc để quảng bá văn hóa, du lịch bản địa.
Điển hình như tại Khu du lịch Sun World Fansipan Legend, nhiều năm liền được World Travel Awards bình chọn là "điểm đến du lịch văn hóa hàng đầu thế giới". Mỗi năm chúng tôi tổ chức hàng loạt lễ hội mang đậm màu sắc văn hóa bản địa như "Lễ hội ẩm thực Tây Bắc" do chính những người dân tại Tây Bắc chuẩn bị và thực hiện; Giải đua "Vó ngựa trên mây" tái hiện những khoảnh khắc kiêu hùng của "kỵ sỹ" vùng cao. Du khách có thể dễ dàng tìm hiểu đời sống tâm linh, tín ngưỡng, ẩm thực, nghề truyền thống và các chương trình biểu diễn nghệ thuật đặc sắc tới từ chính những chàng trai, cô gái dân tộc thiểu số tại Bản Mông, Sunworld Fansipan Legend.
Sungroup đề xuất Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các chính quyền địa phương để xây dựng đề án đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ.
Nguồn tin: baochinhphu.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn