Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68

Thứ sáu - 27/06/2025 03:02
Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức tọa đàm "Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68" vào lúc 9h ngày 27/6.
TỔNG THUẬT Tọa đàm: Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68- Ảnh 1.

Các vị khách mời tham gia Tọa đàm "Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68", sáng 27/6 - Ảnh: VGP/Dương Tuấn

Trước thềm kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân ra đời như một bước ngoặt, đột phá trong tư duy và hoạch định chính sách phát triển kinh tế, là sự khẳng định của Đảng về vai trò then chốt, động lực quan trọng hàng đầu của khu vực kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển đất nước với đòi hỏi cần có sự cải cách mạnh mẽ về thể chế, cơ chế thực thi, xây dựng một hệ sinh thái kinh doanh minh bạch, hiệu quả, đồng hành cùng doanh nghiệp.

Ngay sau khi Nghị quyết 68 được ban hành, cả hệ thống chính trị đã bắt tay ngay vào triển khai thực hiện để đưa chủ trương, quyết sách của Đảng và thực tiễn cuộc sống, trong đó Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân; Chính phủ đã xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để triển khai nghị quyết của Trung ương, Quốc hội về phát triển kinh tế tư nhân.

Để kinh tế tư nhân thực sự "cất cánh", phát huy vai trò "là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia", Nghị quyết 68 cũng như các Nghị quyết, chỉ đạo liên quan đã đưa ra các quan điểm, mục tiêu, lộ trình, nhiệm vụ, giải pháp rất cụ thể, rõ ràng. Một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng được đề ra là phải đa dạng hóa nguồn vốn; tạo điều kiện thuận lợi nhất cho kinh tế tư nhân tiếp cận các nguồn lực về vốn; rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng cho kinh tế tư nhân; tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc đối với khu vực kinh tế tư nhân;…

Vốn tín dụng được coi là "mạch máu" đối với nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, trong đó các Ngân hàng thương mại có vai trò đặc biệt quan trọng trong cung ứng, điều hòa, bảo đảm cho quy trình tuần hoàn, vận hành trơn tru của hệ thống huyết mạch này.

Trước yêu cầu mới, nhiệm vụ mới mà Nghị quyết 68, Nghị quyết 198 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân và các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ… đặt ra thì ngành ngân hàng và các ngân hàng thương mại đã có sự chuẩn bị như thế nào; giải pháp gì để có thể đa dạng hóa nguồn vốn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho kinh tế tư nhân tiếp cận vốn vay; những cơ chế, chính sách liên quan đến tín dụng cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện; các ngân hàng thương mại cần phát huy vai trò như thế nào trong thực hiện Nghị quyết 68…

Tất cả những vấn đề này sẽ được phân tích, đánh giá, luận bàn, kiến giải tại Tọa đàm "Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68" do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức với sự tham gia của lãnh đạo các cơ quan chức năng, chuyên gia, doanh nghiệp và sự đồng hành của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank).

TỔNG THUẬT Tọa đàm: Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68- Ảnh 2.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: NHNN đã bảo đảm an toàn hệ thống, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy hiệu quả các chương trình tín dụng, tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn thuận lợi hơn - Ảnh: VGP/Dương Tuấn

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Trong bối cảnh mới, khi chúng ta có Nghị quyết 68 và đất nước ta đang đứng trước thềm kỷ nguyên mới, là đại diện cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, ông có nhìn nhận, đánh giá như thế nào về vai trò của nguồn vốn, vấn đề về cung ứng tín dụng hiện nay trong đáp ứng cho nhu cầu phát triển của doanh nghiệp và Nghị quyết 68 sẽ mở những cơ hội như thế nào đối với doanh nghiệp cũng như đặt ra các yêu cầu, đòi hỏi gì đối với hệ thống các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp trong triển khai và thụ hưởng chính sách?

Ông Nguyễn Phi Lân, Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính (NHNN): Nghị quyết 68 được Bộ Chính trị ban hành đã tạo ra dấu ấn quan trọng đối với cả nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Nghị quyết được cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp tư nhân hào hứng đón đợi. Đây là một trong những nghị quyết có sức hút cũng như tạo ra sức bật rất lớn đối với cả nền kinh tế, tạo ra nđộng lực mới cho quá trình phát triển trong giai đoạn tiếp theo của nền kinh tế chúng ta.

Nghị quyết 68 đã tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn, bản chất là đa dạng các nguồn vốn, không chỉ nguồn vốn của ngành ngân hàng mà còn các nguồn vốn khác

Đến ngày 18/6/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt 16,73 triệu tỷ đồng, tăng 7,14% so với cuối năm 2024, tăng 18,71% so với cùng kỳ năm 2024 (cùng kỳ năm 2024, dư nợ tín dụng tăng +3,87% so với tháng 12/2023).

Qua quá trình thống kê thì thấy rằng, có đến 100 tổ chức tín dụng đã phát sinh tỷ lệ dư nợ đối với khu vực kinh tế tư nhân. Và trong đó có khoảng 209.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ đều có phát sinh dư nợ tại các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại. Điều đấy khẳng định dòng vốn tín dụng đã lan tỏa đến mọi phân khúc của các doanh nghiệp, mọi phân khúc của nền kinh tế.

Bên cạnh đó, con số này không chỉ phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân mà còn phản ánh nỗ lực, cố gắng của ngành ngân hàng dành cho khu vực kinh tế tư nhân.

Trong thời gian qua, ngành ngân hàng đã có những chính sách đồng hành thiết thực cùng các doanh nghiệp tư nhân như cơ cấu lại thời gian trả nợ, miễn giảm lãi suất, hỗ trợ phục hồi sau dịch bệnh, thiên tai, ví dụ như Đại dịch COVID-19, bão Yagi… Các ngân hàng cũng không ngừng đổi mới, đa dạng hóa sản phẩm tín dụng, số hóa quy trình cho vay cũng như là giảm thiểu các chi phí, rút ngắn hồ sơ quy trình trong quá trình xử lý để cho vay đối với cả các doanh nghiệp tư nhân.

Khi ban hành Nghị quyết 68 thì đặt ra rất nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với các doanh nghiệp tư nhân. Một trong những điểm chúng ta có thể nhìn nhận rõ nét nhất khi đánh giá về Nghị quyết 68 đối với khu vực kinh tế tư nhân là Nghị quyết 68 đã khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân xây dựng hệ thống, hệ sinh thái tài chính minh bạch. Phải đảm bảo tính minh bạch, phải đảm bảo lành mạnh, nâng cao năng lực quản trị, nhất là năng lực quản trị tài chính đối với các ngân hàng, đối với cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Bên cạnh đó tạo cho các doanh nghiệp đầu tư bài bản hơn, phù hợp với phân khúc thị trường mà các doanh nghiệp tư nhân đang theo đuổi, cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân đa dạng hóa nguồn vốn để giảm thiểu rủi ro, tránh phụ thuộc quá nhiều vào dòng vốn của ngành ngân hàng.

Ngoài ra, doanh nghiệp tư nhân có cơ hội để huy động các nguồn vốn khác từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Đồng thời có thể thực hiện các hình thức liên quan đến liên doanh, liên kết, cổ phần hóa, thực hiện thông qua các thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Trước bối cảnh bước sang kỷ nguyên mới thì đòi hỏi các doanh nghiệp tư nhân phải nỗ lực thay đổi diện mạo của mình. Đối với ngành ngân hàng, một trong những vấn đề đặt ra là phải đồng hành cùng khu vực kinh tế tư nhân. Đồng hành thứ nhất là ngành ngân hàng phải nâng cao quản trị rủi ro, đảm bảo dòng vốn tín dụng được phân bổ hiệu quả, tập trung vào những ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên, những ngành mà khu vực kinh tế tư nhân đã và đang cần.

Vấn đề thứ hai là yêu cầu ngành ngân hàng phải đổi mới công nghệ, phải ứng dụng số vào các dịch vụ tín dụng, phải để khách hàng trải nghiệm các dịch vụ, sản phẩm tốt hơn. Quy trình phải đơn giản hơn. Điề đó buộc ngành ngân hàng có sự đổi mới, phải thích ứng với sự thay đổi hiện nay.

Đồng hành nữa là ngành ngân hàng hỗ trợ tư vấn này, giúp các doanh nghiệp tư nhân trong quá trình tiếp cận thị trường, tiếp cận nguồn vốn, thiết kế các sản phẩm tài chính chuyên biệt hơn, để cho các doanh nghiệp cảm thấy sản phẩm này có ích, hữu hiệu và hứng thú với các sản phẩm đó.

Đồng thời, ngành ngân hàng phải thực hiện quy trình nghiêm ngặt hơn, đảm bảo đúng chuẩn mực quốc tế, theo đúng thông lệ quốc tế.

TỔNG THUẬT Tọa đàm: Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68- Ảnh 3.

Ông Nguyễn Phi Lân khẳng định dòng vốn tín dụng đã lan tỏa đến mọi phân khúc của các doanh nghiệp, mọi phân khúc của nền kinh tế - Ảnh: VGP/Dương Tuấn

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Ngân hàng đã đóng góp rất lớn và bây giờ là doanh nghiệp tư nhân có tỷ lệ dư nợ tín dụng lớn nhất trong các thành phần kinh tế. Vậy xin hỏi ông thêm là định hướng trong thời gian tới như thế nào?

Ông Nguyễn Phi Lân: Ngay khi Nghị quyết 68 ra đời thì Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành kế hoạch triển khai hành động số 2415 và 2416 để triển khai Nghị quyết 68 cũng như cụ thể hóa Nghị quyết 138, 139 của Thủ tướng Chính phủ. Kế hoạch hành động này đã cụ thể hóa tất cả các chương trình hành động, cụ thể tới tất cả các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước cũng như là các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng để triển khai các giải pháp đồng hành cùng với các doanh nghiệp, để làm thế nào cụ thể hóa Nghị quyết 68 cũng như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tới người dân, doanh nghiệp, các ngân hàng, làm thế nào tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp tư nhân có thể tiếp cận nguồn vốn, đồng thành cùng các doanh nghiệp tư nhân trong quá trình phát triển.

TỔNG THUẬT Tọa đàm: Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68- Ảnh 4.

Ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TPHCM - Ảnh: VGP/Dương Tuấn

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Xin đặt câu hỏi với ông Lê Hoàng Châu, để doanh nghiệp tư nhân có thể thực sự "cất cánh", phát huy vai trò "là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia", ở góc độ thị trường, hiệp hội, ông có thể phân tích rõ hơn về ý nghĩa của yếu tố vốn tín dụng đối với hoạt động đầu tư, phát triển của doanh nghiệp và kỳ vọng của ông đối với Nghị quyết 68.

Đặc biệt, theo ông, trong tiếp cận vốn tín dụng hiện nay của doanh nghiệp, còn những hạn chế, vướng mắc, điểm ngẽn nào cần tập trung tháo gỡ, nhất là những điểm nghẽn về pháp lý hiện nay của một số dự án và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị được kỳ vọng sẽ giải được bài toán này ra sao, thưa ông?

Ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TPHCM: Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đã có nhiều nghị quyết để phát triển kinh tế tư nhân và đặc biệt đó là Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị là một trong "bộ tứ trụ cột" để thúc đẩy kinh tế-xã hội, trong đó có cả việc giải quyết vướng mắc lớn của thị trường bất động sản là vướng mắc pháp lý (chiếm đến 70%). Nghị quyết 68 xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, chúng tôi rất phấn khởi. Sau đó Quốc hội ban hành Nghị quyết 168 và Chính phủ ban hành Nghị quyết 138 để triển khai nghị quyết của Bộ Chính trị. Chúng tôi rất vui mừng vì chỉ trong một thời gian ngắn đã có nhiều nghị quyết để tháo gỡ vướng mắc, khó khăn để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân và trong đó có lực lượng doanh nghiệp bất động sản.

Hiện nay, chúng tôi thấy lực lượng doanh nghiệp bất động sản phải nhìn các tổ chức tín dụng như là bà mẹ của chính mình. Các tổ chức tín dụng hiện nay đóng vai trò "bà đỡ" của nền kinh tế, trong đó có thị trường bất động sản. Bởi vì sau khi chúng tôi tạo lập được quỹ đất, lúc đó rất cần nguồn vốn để đầu tư xây dựng triển khai dự án. Có được nguồn vốn này chúng tôi đã bỏ tiền ra rất lớn để mua đất do đó nguồn vốn tín dụng là nguồn vốn mồi đầu tiên mà chúng tôi tiếp cận bởi vì lúc đó chưa huy động được vốn của khách hàng, chưa xây dựng xong hạ tầng thì chưa đủ điều kiện huy động vốn…

Tuy nhiên, trong thực tế thời gian vừa qua có những tập đoàn, doanh nghiệp bất động sản có uy tín, năng lượng thật sự đã sử dụng nguồn vốn đó đúng mục đích, an toàn, chính việc đó giúp cho doanh nghiệp bất động sản hoàn thành các dự án và hoàn trả vốn vay, lãi vay cho ngân hàng. Nhưng bên cạnh đó cũng có doanh nghiệp yếu về năng lực, thậm chí đầu tư quá mức, đầu tư dàn trải nhiều dự án, không sử dụng vốn đúng mục đích… Điều đó cũng gây rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Chúng tôi thấy mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng đóng vai trò "bà đỡ" đồng thời ngược lại các doanh nghiệp cũng phải đóng vai trò bảo đảm an toàn cho cả hệ thống.

Các tổ chức tín dụng đóng vai trò cực kỳ quan trọng bởi ở Việt Nam hiện nay, các quỹ đầu tư tài chính còn chậm phát triển, quỹ đầu tư tài chính của ngân hàng giờ chỉ có 1 quỹ của Techcombank, chúng ta chưa có quỹ tài chính để đầu tư, thị trường vốn của chúng ta rất thiếu. Chúng tôi kỳ vọng có thêm các quỹ đầu tư để gánh vác bớt với các tổ chức tín dụng.

Bên cạnh đó, khai thác vốn trên thị trường chứng khoán cũng bị hạn chế, chúng ta chỉ có 1.609 doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán, trong đó chỉ có 63 doanh nghiệp bất động sản niêm yết. Như vậy, thị trường chứng khoán chưa phải là 1 kênh vốn trung hạn, dài hạn cho thị trường bất động sản. Quỹ phát hành trái phiếu doanh nghiệp cũng có những trục trặc, vì vậy các tổ chức tín dụng là kênh dẫn vốn cực kỳ quan trọng. Các ngân hàng nếu kiểm soát nguồn vốn cho vay, các doanh nghiệp cũng phải sử dụng vốn đúng mục đích, các doanh nghiệp hiện nay theo luật phải phát hành trái phiếu không quá 5 lần chủ sở hữu, các bước huy động vốn cũng như vậy để bảo đảm an toàn…

Hiện nay, các tổ chức tín dụng đang bị hạn chế vì 80-90% nguồn vốn huy động là nguồn vốn ngắn hạn – trong khi đó yêu cầu của thị trường bất động sản là nguồn vốn trung hạn và dài hạn, rủi ro này của các tổ chức tín dụng chúng ta phải chia sẻ. Chúng tôi mong muốn Chính phủ và cả người dân của chúng ta có nhận thức rằng, bỏ vốn vào ngân hàng ở các kênh trung hạn, dài hạn để các ngân hàng có nguồn tốt hơn, an toàn hơn để cho vay, chuyển đổi trong xã hội để tăng thêm nguồn gửi tiền tiết kiệm trung hạn, dài hạn nhiều hơn, chúng mới đảm bảo cho tín dụng phát triển an toàn, bền vững, trong đó có thị trường bất động sản. Đối với các doanh nghiệp bất động sản thì phải uy tín sẽ được các tổ chức tín dụng đưa vào danh sách khách hàng uy tín… Tự thân các doanh nghiệp bất động sản phải tái cấu trúc lại doanh nghiệp, tái cơ cấu lại đầu tư, không dàn trải, chuyển hướng đầu tư sang phân khúc thị trường đáp ứng nhu cầu thực.

Bởi vì hiện nay đa số bất động sản đưa ra phân khúc cao cấp, rất thiếu nhà ở có giá trung bình, rất thiếu nhà ở xã hội, cho nên chúng tôi khuyến nghị các doanh nghiệp bất động sản chuyển hướng có những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thực của người dân, đáp ứng chương trình 1 triệu căn nhà ở xã hội. Thời gian vừa rồi rất hoan nghênh Ngân hàng Nhà nước có gói tín dụng 145 nghìn tỷ đồng, hiện nay tỷ lệ giải ngân còn đang thấp, hy vọng có cơ chế mới sẽ giải ngân được nhiều hơn, mong Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện có cơ chế tiếp cận tín dụng các doanh nghiệp đủ điều kiện, trong đó có phân biệt để doanh nghiệp tiếp cận tín dụng.

Thứ hai là rất mong Ngân hàng Nhà nước có cơ chế để xử lý nợ xấu, cả ngân hàng cả doanh nghiệp cùng đồng hành, bước song hành với nhau để các bên đều có lợi, thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh.

TỔNG THUẬT Tọa đàm: Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68- Ảnh 5.

TS. Đậu Anh Tuấn: Đối với doanh nghiệp, vai trò của tín dụng giống như xăng đối với xe chạy xăng. Một xe chạy xăng không đổ đầy bình xăng, điều đó có nghĩa rằng là anh không đủ vốn thì anh không thể đi được xa - Ảnh: VGP/Dương Tuấn

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Nhiều ý kiến cho rằng Nghị quyết 68 ra đời được coi như một bước đột phá trong tư duy và hoạch định chính sách phát triển kinh tế, là một chuyên gia kinh tế, quan điểm, sự nhìn nhận của ông về nhận định này là như thế nào. Đặc biệt để triển khai hiệu quả Nghị quyết 68 và các Nghị quyết,chỉ đạo liên quan của Quốc hội, Chính phủ, các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp tư nhân cần có sự phối hợp, chia sẻ, đồng hành ra sao, thưa ông?

TS. Đậu Anh Tuấn: Tôi đồng ý quan điểm với anh Lê Hoàng Châu. Nghị quyết 68 có rất nhiều điểm nổi bật, và có tác động rất quan trọng, đột phá đối với các doanh nghiệp tư nhân. Dưới góc nhìn của một người nhiều năm làm trong lĩnh vực này, sự khác biệt giữa Nghị quyết 68 đó là sự toàn diện, cụ thể. Chúng ta nhìn thấy Nghị quyết 198 của Quốc hội có nhiều chính sách được chuyển từ Nghị quyết 68 sang. Cho nên tính cụ thể, tính thực tiễn của Nghị quyết 68 là một điểm rất mạnh. Sau này chúng ta chỉ cần chuyển nội dung của Nghị quyết 68 sang, chính vì thế mà tính thực tiễn của nghị quyết rất cao. Chúng ta nhìn thấy nhiều chính sách đã được đi vào cuộc sống.

Trong Nghị quyết 68 có nhóm giải pháp được các doanh nghiệp trông chờ và đánh giá cao liên quan đến tiếp cận tín dụng, vốn. Bởi vì đây là một trong những khó khăn hàng đầu của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Tôi nhớ VCCI trong vòng 20 năm qua khi tiến hành các khảo sát, có hỏi doanh nghiệp rằng điều gì là khó khăn nhất, thì việc khó tiếp cận vốn luôn là khó khăn hàng đầu cùng với những vấn đề về thủ tục hành chính, về đất đai. Điều này thể hiện tầm quan trọng của những chính sách về tín dụng, vốn đối với doanh nghiệp.

Tôi đánh giá rất cao vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp. Anh Lê Hoàng Châu có nói Ngân hàng Nhà nước như "bà đỡ" của doanh nghiệp, nhưng dưới góc nhìn của tôi, đối với doanh nghiệp, vai trò của tín dụng giống như xăng đối với xe chạy xăng. Nếu không có xăng thì xe không chạy được. Nhiều người ví vốn giống như mạch máu kinh tế nhưng tôi thì cho rằng vốn giống như xăng đối với xe chạy xăng vì liên quan đến giá. Nếu giá xăng quá cao thì rõ ràng vận hành về xe sẽ không kinh tế, không khả thi. Một xe chạy xăng không đổ đầy bình xăng, điều đó có nghĩa rằng là anh không đủ vốn thì anh không thể đi được xa. Vì vậy các chính sách cung ứng vốn cho nền kinh tế rất quan trọng, đặc biệt đối với các doanh nghiệp tư nhân.

Tôi nhớ rằng khi nói chuyện với doanh nghiệp về lĩnh vực phát triển công nghiệp hỗ trợ, có nhiều doanh nghiệp nói với tôi rằng thực ra không phải là doanh nghiệp Việt Nam không đủ khả năng, không đủ trình độ công nghệ để phát triển công nghiệp hỗ trợ, Mà bởi vì điểm bất lợi của chúng ta là vốn. Nếu như các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc),... có thể tiếp cận được với những nguồn vốn chi phí thấp, rẻ, dài hạn, có thể lãi suất chỉ 2-3%/năm. Trong khi đấy nếu doanh nghiệp Việt Nam vay vốn ngân hàng với lãi suất cao và đầu tư dài hạn thì về mặt bài toán kinh tế không khả thi, không hiệu quả. Chi phí vốn quyết định chi phí kinh doanh, hiệu quả đầu tư rất lớn. Với tầm quan trọng như thế, chúng tôi đánh giá rất cao nỗ lực của Chính phủ, NHNN trong thời gian vừa qua. Mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn nhưng một trong những ưu tiên hàng đầu chúng ta cố gắng bình ổn lãi suất. Trong năm 2024, 2025 Chính phủ và NHNN đã tìm nhiều giải pháp để bình ổn, giảm lãi suất. Đây là một thành công lớn.

Thứ hai, tháo gỡ những khó khăn về quy định pháp luật. Chúng ta thấy rằng Luật Tổ chức tín dụng vừa sửa đổi năm ngoái, nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc trong giải quyết nợ xấu. Cho nên Chính phủ tiếp tục trình Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức tín dụng (sửa đổi) trong kỳ họp này. Theo quy trình xây dựng văn bản pháp luật thông thường vừa ban hành, thì chúng ta phải đợi một thời gian dài, thậm chí là vài năm, nhưng hiện nay chúng ta không ngại, chúng ta vẫn tiếp tục sửa, đây là một nỗ lực lớn của Chính phủ. Chúng tôi đánh giá với Nghị quyết 68, với những nỗ lực gần đây của Chính phủ, NHNN, phải nói rằng Chính phủ và NHNN đã nắm được vấn đề, tập trung vào các điểm quan trọng của nền kinh tế, từ đó chúng ta cố gắng duy trì, cung cấp tín dụng cho nền kinh tế trong nỗ lực tốt nhất.

Nhưng những nỗ lực này ở Việt Nam rất khó khăn bởi vì hiện nay vốn cho phát triển kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân đang phụ thuộc rất nhiều vào ngân hàng. Để đầu tư dài hạn, các quốc gia không dựa vào hệ thống ngân hàng, mà người ta huy động vốn từ trái phiếu, thị trường chứng khoán. Nhưng những màng thị trường này chúng ta chưa phát triển đúng với kỳ vọng và nhu cầu của nền kinh tế. Chính vì thế hiện nay trụ cột từ vốn tín dụng, từ NHTM quá lớn. Một nền kinh tế đang phát triển nhanh nhưng trụ cột chống đỡ hiện nay đang bị dồn quá nhiều vào NHTM. Chính vì thế sự phát triển về hệ thống tiền tệ. ngân hàng thương mại phải đáp ứng nhiều yêu cầu khác nữa. Chẳng hạn như ổn định kinh tế vĩ mô, đây là mục tiêu rất quan trọng. Vì thế nên rất cân nhắc, điều tiết, đây là bài toán khó, thách thức. Thời gian tới để vừa phát triển, vừa phát triển kinh tế vĩ mô thì có lẽ là yêu cầu rất cao và quan trọng của NHTM và của Chính phủ.

TS Nguyễn Sĩ Dũng: Có thể nói rằng quan trọng là giá vốn như thế nào. Giá vốn như thế nào thì có lẽ NHTM đóng vai trò quan trọng nhất ở đây.

TỔNG THUẬT Tọa đàm: Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68- Ảnh 6.

Bà Nguyễn Bảo Thanh Vân, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) khẳng định vai trò của công nghệ trong nâng cao chất lượng dịch vụ tài chính và hỗ trợ doanh nghiệp SME tiếp cận vốn hiệu quả - Ảnh: VGP/Dương Tuấn

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Là một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu đất nước, được coi là trụ cột của nền kinh tế, xin bà Nguyễn Bảo Thanh Vân có thể cho biết VietinBank có sự đón nhận và kỳ vọng như thế nào về Nghị quyết 68. Để tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết 68 và các Nghị quyết liên quan của Quốc hội, Chính phủ, VietinBank đã xây dựng chương trình hành động, kế hoạch và sự chuẩn bị cụ thể ra sao, thưa bà?

Bà Nguyễn Bảo Thanh Vân, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank): VietinBank luôn xác định rõ vai trò trong việc thực thi các chỉ đạo, chính sách của Chính phủ. Ngay khi tiếp cận Nghị quyết 68, VietinBank đã đón nhận chủ trương này với tinh thần tích cực và kỳ vọng lớn. Đây không chỉ là một giải pháp tình thế, mà còn là một chính sách có tầm nhìn dài hạn nhằm thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết đã góp phần tháo gỡ những vướng mắc về thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp – đặc biệt là khu vực tư nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME).

VietinBank nhận thấy đây là thời điểm quan trọng để nắm bắt cơ hội. Theo mục tiêu của Chính phủ, đến năm 2030, cả nước sẽ có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động. Tức là, mỗi năm cần có thêm khoảng 200.000 doanh nghiệp mới ra đời. Đây chính là làn sóng khởi nghiệp quốc gia mà VietinBank hoàn toàn có thể tham gia hỗ trợ và đồng hành, từ đó mở rộng danh mục khách hàng, phát triển tín dụng một cách lành mạnh và bền vững.

Bên cạnh hoạt động kinh doanh, VietinBank cũng đặc biệt chú trọng đến chuyển đổi số – một yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Theo chủ trương của Chính phủ về minh bạch hóa và hiện đại hóa công tác quản lý, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nền tảng số, chuyển đổi số không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là nền tảng quan trọng để hỗ trợ các ngân hàng nói chung, VietinBank nói riêng. Nhờ đó, VietinBank có điều kiện thuận lợi hơn trong việc triển khai các giải pháp công nghệ số, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ, đồng thời cải thiện mạnh mẽ trải nghiệm của khách hàng.

Các giải pháp hỗ trợ được đề ra trong Nghị quyết đã góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo hướng tích cực hơn, từ đó làm gia tăng nhu cầu tín dụng một cách "lành mạnh". Khi doanh nghiệp khỏe, có nền tảng tài chính tốt và hoạt động ổn định, thì các tổ chức tín dụng cũng sẽ thuận lợi hơn trong việc cung ứng vốn – vừa an toàn, vừa hiệu quả.

Bên cạnh đó, nghị quyết cũng là một cầu nối kết nối giúp bảo đảm sự tin tưởng, hợp tác giữa doanh nghiệp và ngân hàng, tạo ra mối quan hệ cộng sinh để cùng nhau phát triển bền vững. Với kỳ vọng và mong muốn như vậy VietinBank đã đưa ra một chương trình hành động cụ thể.

Thứ nhất, chúng tôi tăng cường truyền thông nội bộ và đào tạo đội ngũ RM (Chuyên viên Quản trị quan hệ) để giúp các đối tượng khách hàng nắm rõ chính sách của Nhà nước, hiểu đặc thù của từng nhóm khách hàng, đặc biệt là các hộ kinh doanh cá thể đang trong quá trình chuyển đổi lên doanh nghiệp.

Thứ hai, chúng tôi xây dựng các gói tín dụng chuyên biệt cho doanh nghiệp tư nhân và các đối tượng khách hàng SME, với lãi suất ưu đãi từ 5%/năm – thấp hơn cả mặt bằng lãi suất tiền gửi 12 tháng (hiện ở mức 5,2 – 5,3%). Các gói vay được thiết kế riêng cho từng ngành nghề, mục tiêu kinh doanh để bảo đảm phù hợp và hiệu quả cao nhất.

Hiện nay, theo tinh thần chủ trương về chuyển đổi số và số hóa của Chính phủ, VietinBank đã áp dụng các công nghệ chuyển đổi số vào phục vụ khách hàng, đặc biệt là đối tượng khách hàng doanh nghiệp tư nhân và SME. VietinBank đang sử dụng AI để phân tích, thẩm định dựa trên cái dữ liệu dòng tiền và dựa trên chuỗi giá trị của khách hàng.

VietinBank cũng tích hợp dữ liệu giữa ngân hàng, thuế và các cơ quan quản lý để thu thập những thông tin của khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác nhất để sớm đưa ra những quyết định thẩm định cho khách hàng.

Những vướng mắc liên quan đến khách hàng, chính sách về thuế, kê khai chưa minh bạch… đã được Nghị quyết 68 giải quyết. Đây cũng là cơ hội để VietinBank áp dụng những nền tảng công nghệ số của mình để triển khai các sản phẩm tín dụng, dịch vụ như giải ngân online, giúp cho khách hàng tiết kiệm được những thời gian quý báu.

Bên cạnh đó, VietinBank cũng hợp tác với các công ty phần mềm như MISA, KiotViet… để cung cấp phần mềm kế toán, bán hàng cho doanh nghiệp mới chuyển đổi. Đây là giải pháp giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực quản trị tài chính và dòng tiền, tăng tính cạnh tranh.

Ngoài việc hỗ trợ giải pháp về tài chính, VietinBank còn cung cấp cho khách hàng các giải pháp phi tài chính nhằm xây dựng mối quan hệ gắn kết, cộng sinh giữa ngân hàng và doanh nghiệp.

Để nâng cao kiến thức, giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về chính sách thuế, chính sách của nhà nước, chúng tôi đã phối hợp với cơ quan thuế tổ chức hội thảo, tập huấn để giúp doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân – hiểu đúng và đầy đủ về chính sách thuế, tránh hiểu sai hoặc thiếu thông tin. Bên cạnh đó, đồng hành cùng doanh nghiệp trong việc ứng dụng công nghệ, nâng cao năng lực quản trị và tiếp cận thị trường.

Chúng tôi tin rằng, Nghị quyết 68 là cầu nối quan trọng giữa ngân hàng và doanh nghiệp, xây dựng mối quan hệ hợp tác dựa trên sự tin tưởng, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển.

Bên cạnh việc đưa ra các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, Nghị quyết 68 còn đóng vai trò là "cầu nối" quan trọng, góp phần xây dựng niềm tin, thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp và ngân hàng, hình thành mối quan hệ cộng sinh nhằm hướng đến phát triển bền vững. Với tinh thần đó, VietinBank đã chủ động xây dựng và triển khai một chương trình hành động cụ thể.

Thứ nhất, VietinBank tăng cường công tác truyền thông nội bộ và tổ chức đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ Chuyên viên Quản trị quan hệ khách hàng (RM), nhằm giúp khách hàng nắm bắt đầy đủ chính sách của Nhà nước, đồng thời hiểu rõ đặc thù từng nhóm khách hàng – đặc biệt là các hộ kinh doanh cá thể đang trong quá trình chuyển đổi thành doanh nghiệp.

Thứ hai, ngân hàng đã thiết kế các gói tín dụng chuyên biệt dành riêng cho doanh nghiệp tư nhân và khách hàng SME, với mức lãi suất ưu đãi chỉ từ 5%/năm – thấp hơn cả mặt bằng lãi suất tiền gửi 12 tháng (hiện dao động ở mức 5,2 – 5,3%). Các gói vay được cá thể hóa theo từng ngành nghề, mục tiêu kinh doanh nhằm bảo đảm phù hợp và mang lại hiệu quả cao nhất.

Bám sát chủ trương chuyển đổi số của Chính phủ, VietinBank đã tích cực ứng dụng công nghệ số trong hoạt động phục vụ khách hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân và SME. Ngân hàng sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích, thẩm định tín dụng dựa trên dữ liệu dòng tiền và chuỗi giá trị của khách hàng. Đồng thời, VietinBank cũng tích hợp dữ liệu giữa ngân hàng, cơ quan thuế và các đơn vị quản lý nhà nước, giúp thu thập và xử lý thông tin khách hàng nhanh chóng, chính xác, từ đó đẩy nhanh quá trình thẩm định và ra quyết định tín dụng.

Nghị quyết 68 cũng đã tháo gỡ nhiều vướng mắc liên quan đến khách hàng, như các vấn đề về kê khai thuế chưa minh bạch… Đây chính là điều kiện thuận lợi để VietinBank triển khai các sản phẩm tín dụng số, điển hình như dịch vụ giải ngân online, giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu quả tiếp cận vốn.

Ngoài ra, VietinBank còn hợp tác với các công ty công nghệ như MISA, KiotViet để cung cấp phần mềm kế toán, bán hàng cho các doanh nghiệp mới chuyển đổi, từ đó hỗ trợ nâng cao năng lực quản trị tài chính, quản lý dòng tiền và tăng tính cạnh tranh cho doanh nghiệp.

Không chỉ dừng lại ở các giải pháp tài chính, VietinBank còn cung cấp nhiều giải pháp phi tài chính nhằm xây dựng mối quan hệ hợp tác gắn bó với doanh nghiệp. Cụ thể, ngân hàng đã phối hợp với cơ quan thuế tổ chức các hội thảo, lớp tập huấn giúp doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân – hiểu đúng, hiểu đủ các chính sách về thuế, tránh tình trạng hiểu sai hoặc thiếu thông tin. Đồng thời, VietinBank đồng hành cùng doanh nghiệp trong quá trình ứng dụng công nghệ, nâng cao năng lực quản trị và mở rộng tiếp cận thị trường.

Chúng tôi tin tưởng rằng, Nghị quyết 68 không chỉ là công cụ điều hành chính sách, mà còn là cầu nối vững chắc giữa ngân hàng và doanh nghiệp, giúp củng cố mối quan hệ hợp tác trên cơ sở tin cậy, cùng chia sẻ và phát triển bền vững.

TỔNG THUẬT Tọa đàm: Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68- Ảnh 7.

Ông Nguyễn Phi Lân: NHNN đã triển khai hàng loạt chương trình tín dụng quy mô lớn như: gói 300.000 tỷ đồng tín dụng ngắn hạn, 80.000 tỷ đồng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, và gói 500.000 tỷ đồng cho đầu tư hạ tầng - Ảnh: VGP/Dương Tuấn

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Như phân tích của các đại biểu ở trên, thực hiện Nghị quyết 68, Nghị quyết 198 của Quốc hội và các chỉ đạo của Chính phủ thì việc rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng cho kinh tế tư nhân; sự chia sẻ, đồng hành giữa ngành ngân hàng và doanh nghiệp; hoạt động kết nối thông tin giữa hệ thống ngân hàng, cơ quan thuế, doanh nghiệp;… có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thưa ông, trong triển khai các nội dung này cũng như các nghị quyết, chỉ đạo nói chung, Ngân hàng Nhà nước có các chương trình hành động cụ thể, sự chia sẻ, hỗ trợ, đồng hành như thế nào đối với các doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại?

Ông Nguyễn Phi Lân: Ông Nguyễn Phi Lân: Ngay sau khi Nghị quyết 68 được ban hành, ngành ngân hàng đã triển khai ngay việc ban hành hai Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước để cụ thể hóa Nghị quyết 68 cũng như Nghị quyết 198 của Quốc hội. Đồng thời, các nghị quyết 138 và 139 của Chính phủ cũng được cụ thể hóa thông qua Quyết định số 2415 và 2416 của ngành ngân hàng – nhằm hiện thực hóa toàn bộ chương trình hành động.

Bên cạnh các nội dung cụ thể hóa các giải pháp nêu trong Nghị quyết 68, ngành ngân hàng đã triển khai các nội dung trong cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Một trong những mục tiêu xuyên suốt của Nghị quyết 68 là hoàn thiện hành lang pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Ngay lập tức, để khơi thông dòng vốn cũng như xử lý nợ xấu, ngành ngân hàng đã tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cụ thể hóa Nghị quyết 42 vào trong Luật các tổ chức tín dụng.

Như anh Tuấn vừa nói, trong kỳ họp này, Luật các tổ chức tín dụng đã được thông qua. Đây là bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý, giúp các ngân hàng và tổ chức tín dụng tháo gỡ các nút thắt về tín dụng và xử lý nợ xấu – một thách thức lớn nhiều năm qua đối với toàn ngành.

Đây thực sự là một tin rất vui khi Nghị quyết 42 đã được cụ thể hóa và thông qua tại kỳ họp Quốc hội lần này.

Thứ hai, như anh Dũng, anh Tuấn và các anh chị đã biết, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân, điều quan trọng là phải xây dựng được một môi trường kinh doanh an toàn, lành mạnh, giúp họ có niềm tin vào hệ thống ngân hàng.

Muốn làm được điều đó, chính sách tiền tệ phải được điều hành một cách chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, và phối hợp đồng bộ với chính sách tài khóa cũng như các chính sách khác để tạo ra một môi trường ổn định về kinh tế vĩ mô. Khi môi trường này được thiết lập, doanh nghiệp sẽ cảm nhận được sự tin tưởng và thuận lợi trong tiếp cận nguồn vốn. Như anh Châu nói, ngân hàng là "bà đỡ" – không chỉ về vốn mà còn về môi trường.

Điều hành chính sách tiền tệ là yếu tố then chốt để đảm bảo an toàn, hiệu quả của nền kinh tế – đây cũng là một trong những mục tiêu ngành ngân hàng hướng tới, bên cạnh việc hoàn thiện hành lang pháp lý và điều hành chính sách tiền tệ chủ động.

Thứ ba, cần điều hành tăng trưởng tín dụng một cách an toàn, hiệu quả và lành mạnh. Tính đến thời điểm này, tăng trưởng tín dụng đã đạt mức 16,5 triệu tỷ đồng, đã đạt gần 19% so với cùng kỳ. Điều này cho thấy khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế đã được cải thiện. Ngành ngân hàng tiếp tục đồng hành cùng doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân, trong việc tạo nguồn vốn an toàn và hiệu quả để doanh nghiệp có thể tiếp cận.

Thứ tư, cần đẩy mạnh cải cách hành chính trong hoạt động ngân hàng nhằm cải thiện môi trường kinh doanh. Trong Quyết định 2415 và 2416, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các đơn vị phải đơn giản hóa thủ tục cho vay, tạo điều kiện thuận lợi nhất để doanh nghiệp, người dân tiếp cận nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế. Đây là một trong những nội dung quan trọng được cụ thể hóa trong kế hoạch hành động của toàn ngành.

Ngoài ra, ngành ngân hàng cũng phải bảo đảm hoạt động của các ngân hàng thương mại diễn ra an toàn, lành mạnh. Trong thời gian qua, ngành đã và đang tiếp tục thực hiện cơ cấu lại, nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng – bảo đảm các tổ chức tín dụng vận hành an toàn, hiệu quả. Khi các ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh, chi phí vốn sẽ thấp hơn, từ đó hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu ngân hàng không an toàn, chi phí vốn cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.

Như vậy, ngành ngân hàng không chỉ đảm bảo nguồn vốn cho nền kinh tế mà còn phải tự tái cấu trúc để trở nên mạnh hơn, từ đó cung cấp các khoản vay hiệu quả hơn, chi phí thấp hơn. Đồng thời, ngành cũng phải đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt và chuyển đổi số – đây là xu hướng tất yếu.

Không chỉ dừng lại ở việc triển khai Nghị quyết 68, ngành ngân hàng còn tích cực thực hiện nhiều chương trình tín dụng. Ví dụ như các chương trình tín dụng tại Vietinbank, chương trình tín dụng ngắn hạn trị giá 300.000 tỷ đồng; chương trình tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ với quy mô 80.000 tỷ đồng; và đặc biệt là chương trình 500.000 tỷ đồng cho vay đầu tư hạ tầng...

Theo thống kê hiện nay, đã có 21 ngân hàng thương mại chuẩn bị nguồn lực để triển khai gói 500.000 tỷ đồng. Trong đó, 4 ngân hàng thương mại nhà nước giữ vai trò chủ lực, mỗi ngân hàng đăng ký hơn 60.000 tỷ đồng. Còn 12 ngân hàng cổ phần tư nhân quy mô lớn đăng ký mỗi đơn vị hơn 20.000 tỷ, các ngân hàng quy mô nhỏ hơn đăng ký khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi đơn vị.

Điều này cho thấy, ngành ngân hàng luôn đồng hành cùng doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi nhất để phát triển kinh doanh. Một mặt đảm bảo an toàn hệ thống, mặt khác cung cấp các gói tín dụng thiết thực – đó là điều mà ngành đang và sẽ tiếp tục triển khai.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Có thể nói, Ngân hàng Nhà nước – dù không gọi là ngân hàng trung ương – nhưng đã thực hiện rất tốt vai trò của một ngân hàng trung ương. Ngành đã bảo đảm an toàn hệ thống, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy hiệu quả các chương trình tín dụng, tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn thuận lợi hơn.

TỔNG THUẬT Tọa đàm: Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68- Ảnh 8.

Ông Lê Hoàng Châu: Chúng tôi rất mong đợi có một chiến lược xây dựng doanh nghiệp dân tộc Việt Nam, phát động phong trào "make in Việt Nam" – sản xuất tại Việt Nam, tiến tới "made in Việt Nam" - Ảnh: VGP/Dương Tuấn

TS Nguyễn Sĩ Dũng: Để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, nhiều ý kiến cho rằng, cần tập trung hơn nữa trong nâng cao năng lực quản trị đi liền với thực hiện các giải pháp tăng uy tín và khả năng tiếp cận nguồn lực tín dụng của doang nghiệp tư nhân, quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào và ông có thể phân tích rõ hơn về những vấn đề đặt ra cần tập trung trong thực hiện các giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận nguồn lực tín dụng của doanh nghiệp tư nhân?

Ông Lê Hoàng Châu: Năm 2018, Hiệp hội Bất động sản TPHCM khuyến nghị với doanh nghiệp phải đảm bảo được 3 an toàn: pháp lý, tài chính-tín dụng, quản trị (đối với doanh nghiệp, từng dự án…). Trong quản trị doanh nghiệp, chúng tôi rất quan trọng quản trị rủi ro, nhưng có những thời điểm chúng ta không dự liệu được hết, cụ thể như rủi ro do COVID, xung đột địa chính trị…

Đối với thị trường bất động sản trong 3 năm vừa qua có rủi do là thị trường trái phiếu phát hành riêng lẻ. Khi bị đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, khi nền kinh tế bị những cú sốc từ bên ngoài, lúc đó thị trường bất động sản bị đứt gãy trong việc có được dòng tiền. Không có dòng tiền thì không có thanh khoản, không làm nhiệm vụ trả lãi, trả nợ ngân hàng, với trái chủ, không thể thực hiện được dự án của mình. Đó là tôi nói những doanh nghiệp lành mạnh. 

Bên cạnh đó có những doanh nghiệp đầu tư dàn trải, có ý đồ chiếm dụng vốn của khách hàng thì còn tệ hơn nữa. Có thể nói năng lực quản trị doanh nghiệp trong thời gian vừa qua là mấu chốt, đến hôm nay những doanh nghiệp vượt qua cơn bão trong 3 năm vừa qua đang dần phục hồi và tăng trưởng trở lại, những doanh nghiệp đó là khách hàng để các tổ chức tín dụng đặt niềm tin vì đã đủ bản lĩnh đủ kinh nghiệm...

Quản trị rủi ro của doanh nghiệp phải đi đôi với chuyển đổi số, quản lý thật khoa học từ khâu quy hoạch đến khâu thực hiện dự án, tất cả đều phải thực hiện đầy đủ. Quản trị doanh nghiệp là quan trọng nhất, đồng thời xây dựng uy tín, thương hiệu với tinh thần "nói được làm được", có giá cả hợp lý. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp luôn mong muốn có được môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh.

Về vĩ mô, chúng tôi rất mong đợi có một chiến lược xây dựng doanh nghiệp dân tộc Việt Nam, phát động phong trào "make in Việt Nam" – sản xuất tại Việt Nam, tiến tới "made in Việt Nam" – bản quyền thương hiệu, sáng kiến của người Việt.

TỔNG THUẬT Tọa đàm: Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68- Ảnh 9.

TS. Đậu Anh Tuấn: Những giải pháp trong Nghị quyết 68 đang hướng tới việc tạo lập nguồn vốn cho khu vực doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là khu vực sản xuất, DNNVV và những lĩnh vực được khuyến khích như chuyển đổi xanh - Ảnh: VGP/Dương Tuấn

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tăng cường nguồn lực cho khu vực kinh tế tư nhân, trong đó có nguồn lực về vốn không phải là sự trải đều, đồng đều và rộng khắp mà phải có trọng tâm, trọng điểm, có sự lựa chọn. Ở góc độ ngân hàng, theo ông những doanh nghiệp tư nhân như thế nào cần được ưu tiên tập trung hỗ trợ?

TS. Đậu Anh Tuấn: Tôi rất nhất trí với quan điểm của TS. Nguyễn Sĩ Dũng rằng nguồn vốn là hữu hạn, nên chúng ta phải hướng vốn vào những hoạt động tạo ra lợi thế, cạnh tranh nhất và hiệu ứng đối với xã hội tốt nhất. Tôi cho rằng nguồn vốn nên được khơi thông và thúc đẩy, khuyến khích chảy vào khu vực sản xuất, nơi tạo ra hàng hoá, dịch vụ cụ thể, nơi tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người lao động, nơi giúp giải quyết nhiều vấn đề về an sinh xã hội. Cho nên những ngành hàng chúng ta đang có thế mạnh, ví dụ như trong nông nghiệp, thì không chỉ là những doanh nghiệp mà là nhiều bà con nông dân.

Một trong những khó khăn của các ngân hàng thương mại hiện nay là việc tiếp cận, kết nối được với các doanh nghiệp tốt. Nghị quyết 68 đã phần nào đưa ra hướng giải quyết cho vấn đề này, như yêu cầu tăng cường kết nối thông tin giữa các cơ quan thuế, kho bạc, cơ quan pháp luật với hệ thống ngân hàng. Qua đó, các ngân hàng có thể tiếp cận được dữ liệu về lịch sử tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp. Thay vì phải tự thu thập thông tin, tốn thời gian và chi phí, việc chia sẻ, kết nối dữ liệu sẽ giúp các ngân hàng có lợi thế hơn trong việc đánh giá, lựa chọn khách hàng tiềm năng.

Nghị quyết 68 đã khuyến khích việc cho vay không chỉ dựa trên tài sản thế chấp, mà phải chuyển sang cho vay dựa trên dòng tiền. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, cần phải gỡ bỏ các rào cản trong hệ thống pháp luật. Hiện nay, từ nghị định đến thông tư vẫn còn tồn tại những quy định gây trở ngại cho các ngân hàng thương mại khi áp dụng hình thức cho vay theo dòng tiền. Nếu chúng ta tiến hành rà soát và loại bỏ những quy định bất cập này, sẽ tạo điều kiện để hoạt động tín dụng được vận hành một cách an toàn và hiệu quả hơn.

Cũng cần nhìn nhận rằng, cho vay theo dòng tiền luôn tiềm ẩn rủi ro, và trong trường hợp xảy ra rủi ro, ngân hàng có thể bị quy trách nhiệm. Do đó, việc chấp nhận rủi ro trong hoạt động kinh doanh là cần thiết, miễn là rủi ro đó được quản lý tốt thông qua việc gỡ bỏ những rào cản pháp lý không cần thiết. Thay vì chỉ cho vay các khoản có tài sản bảo đảm, ngân hàng cần được tạo điều kiện để mở rộng tín dụng cho những doanh nghiệp có luồng tiền tốt, có lịch sử tuân thủ pháp luật rõ ràng, được đánh giá là có tiềm năng – kể cả khi chưa có tài sản thế chấp.

Đây cũng chính là cách để khuyến khích các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp đổi mới, doanh nghiệp chưa có vốn nhưng có triển vọng phát triển. Vì vậy, vai trò của hệ thống thể chế, của các quy định pháp luật mang tính nền tảng là hết sức quan trọng.

Đối với vấn đề liên quan đến quỹ đầu tư tại Việt Nam, thực tế cho thấy, hiện nay số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm vào Việt Nam còn tương đối khiêm tốn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng vốn đầu tư vào thị trường nội địa còn hạn chế, trong đó một trong những nguyên nhân quan trọng là các quy định liên quan đến sàn chứng khoán.

Cụ thể, hiện nay quy định về điều kiện để doanh nghiệp được niêm yết trên sàn chứng khoán của Việt Nam đang rất chặt chẽ. Các quỹ đầu tư, khi rót vốn vào doanh nghiệp, đều cần một cơ chế để rút vốn, thu hồi lợi nhuận. Tuy nhiên, trong bối cảnh điều kiện IPO hiện hành yêu cầu doanh nghiệp phải có lãi trong 2 năm liên tiếp và không có lỗ lũy kế, thì khả năng thoái vốn của nhà đầu tư gần như bị hạn chế nghiêm trọng. Chính vì vậy, trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp niêm yết là các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp bất động sản; còn các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo – dù tiềm năng – lại rất ít doanh nghiệp đáp ứng được điều kiện niêm yết.

Nghị quyết 68 và Nghị quyết 57 đã bước đầu khơi thông những điểm nghẽn này. Theo tôi được biết, Luật Khoa học và Công nghệ về đổi mới sáng tạo cũng đã có quy định về việc thành lập sàn niêm yết riêng dành cho doanh nghiệp trong lĩnh vực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đây là hướng đi rất quan trọng nhằm tháo gỡ khó khăn về thể chế, từ đó mở đường cho các dòng vốn đầu tư – đặc biệt là vốn mạo hiểm – tiếp cận hiệu quả hơn với các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo trong nước.

Một điểm rất khó hiện nay là việc tiếp cận vốn tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ – khu vực chiếm tới 97–98% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam. Nhóm doanh nghiệp này hầu như rất khó tiếp cận được với hệ thống ngân hàng chính thức. Họ thường phải vay từ các nguồn phi chính thức như người thân, bạn bè, thậm chí từ "tín dụng đen", tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn cả về tài chính lẫn pháp lý.

Chúng ta hiện đã có các công cụ hỗ trợ như Quỹ hỗ trợ DNNVV, Quỹ bảo lãnh tín dụng. Tuy nhiên, dù đã được thiết lập về mặt hình thức, các quỹ này vẫn hoạt động kém hiệu quả. Nghị quyết 68 đã đề ra nhiều giải pháp nhằm vận hành các quỹ hỗ trợ và bảo lãnh tín dụng này theo hướng hiệu quả và tiệm cận cơ chế thị trường hơn. Thay vì hoạt động như một thiết chế hành chính như trước, các quỹ cần được tổ chức theo hướng linh hoạt hơn, sẵn sàng chấp nhận rủi ro có kiểm soát để hỗ trợ đúng đối tượng, đúng mục tiêu.

Thực chất, những giải pháp trong Nghị quyết 68 đang hướng tới việc tạo lập nguồn vốn cho khu vực doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là khu vực sản xuất, DNNVV và những lĩnh vực được khuyến khích như chuyển đổi xanh. Cùng với đó, Nghị quyết 198 của Quốc hội cũng đã đưa ra các giải pháp cụ thể như hỗ trợ 2% lãi suất cho doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi xanh – một tín hiệu rất tích cực.

Chúng tôi cho rằng, vốn là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nguồn vốn phải được dẫn dắt và chảy đúng địa chỉ – vào sản xuất, vào đổi mới sáng tạo, chứ không tạo ra bong bóng tài sản hay đầu cơ, vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ổn định kinh tế vĩ mô. Những giải pháp mà Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã và đang triển khai trong thời gian qua đều theo hướng tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy dòng vốn lành mạnh, qua đó góp phần quản lý và định hướng phát triển nền kinh tế một cách bền vững hơn.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Mấy ý của anh Tuấn nếu rất quan trọng, bởi vì chúng ta phải hướng nguồn vốn phải chảy vào nơi cần thiết, nơi tạo ra năng lực cạnh tranh. Đồng thời vào những ưu tiên chính sách của chúng ta. Quả thực là kinh tế xanh, đầu tư cho KHCN để tạo bước đột phá. Một ý tôi nghĩ rất quan trọng đó là tạo nguồn vốn cho DNNVV, tạo nguồn vốn ưu tiên.

TỔNG THUẬT Tọa đàm: Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68- Ảnh 10.

Bà Nguyễn Bảo Thanh Vân trao đổi với các khách mời tại Tọa đàm - Ảnh: VGP/Dương Tuấn

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Việc xây dựng hình ảnh về một VietinBank năng động, thấu hiểu, cảm thông và hành động vì doanh nghiệp đã và đang được Vietinbank tích cực triển khai thực hiện. Tại Tọa đàm hôm nay, ông có thể chia sẻ những chính sách linh hoạt, ưu đãi sẽ được ngân hàng áp dụng để hỗ trợ doanh nghiệp trong thời gian tới và VietinBank có mong nuốn và sự phối hợp, song hành như thế nào với các ngân hàng thương mại khác trong hệ thống để cùng nhau hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân phát triển, thực hiện hiệu quả Nghị quyết 68 và các Nghị quyết liên quan của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ?

Bà Nguyễn Bảo Thanh Vân: Hiện nay, VietinBank đang định hình chiến lược phát triển trở thành một ngân hàng năng động, thấu hiểu và hành động vì khách hàng. Đây không chỉ là một khẩu hiệu mà là mục tiêu xuyên suốt trong toàn bộ quá trình phát triển của ngân hàng. Để hiện thực hóa mục tiêu này, chúng tôi triển khai nhiều giải pháp cụ thể và đồng bộ.

Nghị quyết 68 tập trung mạnh vào khu vực doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ (SME). Đây cũng chính là tinh thần chỉ đạo xuyên suốt của Ngân hàng Nhà nước, và VietinBank – với vai trò là một trong những ngân hàng thương mại Nhà nước chủ lực – đã nghiêm túc tiếp nhận và triển khai thông qua việc ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp. Đặc biệt, chúng tôi ưu tiên phân bổ nguồn lực tốt nhất, không chỉ về tài chính mà còn cả hỗ trợ phi tài chính, để đồng hành cùng các doanh nghiệp trong hành trình phát triển.

Bên cạnh đó, chúng tôi còn hỗ trợ về phi tài chính, tư vấn hỗ trợ cho doanh nghiệp. Chẳng hạn như một số các hộ kinh doanh nhỏ lẻ – nhóm khách hàng vốn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ ngân hàng và chưa quen với các quy định về thuế, kế toán hay minh bạch tài chính. VietinBank hỗ trợ nhóm này nâng cao năng lực tài chính, cải thiện báo cáo tài chính để tăng cơ hội tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, chất lượng hơn.

Ngoài ra, VietinBank cũng trực tiếp làm việc với khách hàng thông qua đội ngũ RM tại các chi nhánh. Chúng tôi tổ chức nhiều hội thảo kết nối doanh nghiệp tại các vùng miền trên cả nước, đồng thời tăng cường truyền thông trên các phương tiện đại chúng để bất kỳ doanh nghiệp nào có nhu cầu đều có thể dễ dàng tiếp cận thông tin và dịch vụ của VietinBank.

Chúng tôi mong muốn có sự hỗ trợ, ủng hộ của Ngân hàng Nhà nước. Và toàn hệ thống ngân hàng cùng thực hiện theo tinh thần Nghị quyết 68 để cùng phát triển lành mạnh, hướng tới đạt được các mục tiêu ưu tiên của Chính phủ.

Một khó khăn nữa mà chúng tôi đang gặp phải là bản thân các ngân hàng, trong đó có VietinBank, cũng cần điều chỉnh lại các quy định cũ và cơ chế pháp lý để phù hợp hơn với đặc thù của nhóm khách hàng mới này.

Trong khâu quản trị rủi ro đối với nhóm khách hàng SME cũng cần có cách tiếp cận mới. Và trong quá trình ra sản phẩm, dịch vụ tài chính cho nhóm khách hàng, chúng tôi mong muốn lắng nghe nhiều hơn các ý kiến phản hồi thực tế để điều chỉnh phù hợp, bảo đảm rằng sản phẩm ngân hàng không chỉ đúng về lý thuyết mà còn thực sự đồng hành và hỗ trợ khách hàng hiệu quả.

Về môi trường cạnh tranh, VietinBank luôn ủng hộ cạnh tranh lành mạnh – nơi các ngân hàng cùng đồng hành với doanh nghiệp dựa trên giá trị bền vững, dịch vụ tận tâm, giải pháp tài chính linh hoạt và sự cam kết lâu dài.

Bên cạnh đó, VietinBank kỳ vọng hệ thống ngân hàng cùng hướng tới một tầm nhìn chung, đồng thời cam kết tập trung nguồn lực vào những lĩnh vực mà Chính phủ đã xác định rõ các lĩnh vực ưu tiên như tín dụng xanh, sản xuất, nông nghiệp – những ngành đòi hỏi nguồn vốn lớn nhưng có khả năng tạo ra giá trị lan tỏa cao, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng GDP và phát triển bền vững.

Chúng tôi tin rằng, nếu toàn hệ thống ngân hàng cùng chung tay hành động, tuân thủ chỉ đạo thống nhất, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ khách hàng một cách chủ động và trách nhiệm, thì chắc chắn sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân – một động lực then chốt cho sự thịnh vượng chung của đất nước.

TỔNG THUẬT Tọa đàm: Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68- Ảnh 11.

Ông Nguyễn Phi Lân: Nghị quyết 68 có các giải pháp hết sức chi tiết, cụ thể, bao gồm cả giải pháp ngắn hạn và dài hạn, có sự phân công rất rõ ràng, cụ thể cho các bộ, ngành - Ảnh: VGP/Dương Tuấn

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Một câu cuối cùng, tôi xin được hỏi anh Lân. Các giải pháp để mở thị trường tín dụng, tạo điều kiện cho cả ngân hàng và doanh nghiệp, ví dụ như quỹ bảo lãnh tín dụng, mà vừa qua đã có rồi nhưng hiệu quả rất thấp; hay hệ thống đánh giá tín nhiệm của các doanh nghiệp để giúp cho doanh nghiệp, một loạt các giải pháp khác để khơi thông. Ở đây, phía Ngân hàng Nhà nước cũng như các bên liên quan, đây không chỉ là việc của riêng Ngân hàng Nhà nước – nhưng với vai trò là người đại diện cho các cơ quan quản lý, xin anh được chia sẻ về những vấn đề đó và các giải pháp bổ sung để triển khai, nhằm hỗ trợ cả ngân hàng thương mại và doanh nghiệp?

Ông Nguyễn Phi Lân: Nghị quyết 68 có các giải pháp hết sức chi tiết, cụ thể, bao gồm cả giải pháp ngắn hạn và dài hạn, có sự phân công rất rõ ràng, cụ thể cho các bộ, ngành.

Và Nghị quyết 198 của Quốc hội đã cụ thể hóa thêm một bước nữa, chuyển các giải pháp từ Nghị quyết 68 sang Nghị quyết 198. Tiếp theo đó, để đảm bảo cơ chế phối hợp, Thủ tướng Chính phủ đã phân công, phân nhiệm rất rõ ràng cho các bộ, ngành và các đơn vị liên quan, ngay lập tức ban hành Nghị quyết 138 và 139.

Các nghị quyết này đã có sự phân công cụ thể trách nhiệm của các bộ, ngành trong ngắn hạn và dài hạn, làm thế nào để tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân có thể tiếp cận được nguồn vốn và phát triển.

Tất cả những giải pháp đó cho thấy, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã có cái nhìn rất khách quan, toàn diện và bao quát tất cả những vấn đề mà khu vực kinh tế tư nhân hiện nay đang gặp phải. Các giải pháp cũng đã được phân công cụ thể cho ngành ngân hàng và các bộ, ngành khác.

Đối với ngành ngân hàng, trong quá trình đồng hành cùng khu vực kinh tế tư nhân, chúng tôi luôn coi trọng việc làm thế nào để tạo ra một môi trường thông thoáng nhất, giúp doanh nghiệp tư nhân tiếp cận được nguồn vốn. Nếu như trước đây, nhiều người cho rằng lãi suất còn cao, thì thực tế đến nay, mặt bằng lãi suất đã xuống rất thấp. Chúng ta đã quay lại được mặt bằng lãi suất của thời kỳ trước COVID-19 năm 2019, thậm chí là thấp hơn.

Như vậy, đây là nỗ lực rất lớn của ngành ngân hàng, bởi chúng ta biết sau đại dịch COVID-19, nền kinh tế thế giới có nhiều biến động, địa chính trị thay đổi thường xuyên, lãi suất của ngân hàng trung ương các nước tăng lên rất cao. Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng ổn định mức lãi suất, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch và phục hồi sau thiên tai bằng cách giảm lãi suất để họ có thể tiếp cận nguồn vốn tốt nhất. Đó là một việc đã tạo điều kiện thuận lợi rất nhiều cho khu vực kinh tế tư nhân.

Bên cạnh đó, như đã đề cập, các chương trình tín dụng đã được xây dựng. Các chương trình này tạo ra các gói vay dựa trên nhu cầu và đối tượng của từng phân khúc thị trường, từng phân khúc khách hàng khác nhau, để khách hàng có khả năng tiếp cận được. Các chương trình tín dụng này lại có các mức lãi suất ưu đãi khác nhau, phân theo đúng đối tượng. Nếu anh thuộc đối tượng cần ưu đãi, anh sẽ được tiếp cận nguồn vốn tại các chương trình của Chính phủ, của ngân hàng đã đặt ra.

Điều đó cho thấy Ngân hàng Nhà nước không chỉ bám sát các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ mà còn cụ thể hóa được Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đưa ra. Đây là một trong những giải pháp thể hiện Ngân hàng Nhà nước đang đồng hành cùng các doanh nghiệp.

Một trong những vấn đề khác được đặt ra là bên cạnh việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp, chúng ta phải làm thế nào để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Trong Nghị quyết 138 và 139, Thủ tướng Chính phủ đã giao trách nhiệm cho Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành, bên cạnh vấn đề tạo cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn thì phải thực hiện hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các vấn đề liên quan đến cho vay, để đảm bảo rằng dòng vốn được sử dụng đúng mục đích, đúng mục tiêu cho vay, tránh trường hợp dòng tiền chảy vào các lĩnh vực rủi ro, gây bất ổn cho nền kinh tế. Trong các nghị quyết 138, 139 Thủ tướng đã giao cho các bộ, ngành, trong đó có Ngân hàng Nhà nước, phải triển khai nội dung này. Đây là một trong những giải pháp vừa đảm bảo cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn, vừa đảm bảo an toàn cho chính các doanh nghiệp.

Đồng thời, cũng là việc cụ thể hóa các chương trình, cũng như vấn đề kết nối thông tin để đảm bảo rằng các ngân hàng, Cổng thông tin của Ngân hàng Nhà nước sẽ có thông tin để cung cấp cho doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại trong quá trình tiếp cận được các thông tin, để có thể kết nối được. Đây là một trong những mục tiêu đã được cụ thể hóa trong hai kế hoạch của ngành ngân hàng, là giải pháp thể hiện ngành ngân hàng đang đồng hành cùng doanh nghiệp.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ đã tổ chức một cuộc tọa đàm mà tôi nghĩ là rất quan trọng để nhìn nhận lại Nghị quyết 68. Quả thực đây là một đột phá về tư duy và đột phá về cách làm, lại rất cụ thể. Sau đó, nghị quyết đã được Chính phủ, Quốc hội cụ thể hóa rất nhanh chóng. Chưa bao giờ một chính sách lại được thể chế hóa nhanh như vậy. Hôm nay chúng ta đã bàn sâu vào vai trò của ngân hàng thương mại và góc độ cung cấp vốn cho nền kinh tế, cho doanh nghiệp tư nhân. 

Nguồn tin: baochinhphu.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Gian hàng

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi