Lễ đài Độc lập và tổng thể vườn hoa Ba Đình trong ngày 2/9/1945 đã trở thành biểu tượng của lịch sử. Tại Lễ đài đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hình ảnh buổi lễ đã đời đời khắc tạc vào ký ức cả dân tộc.
Nhưng ít ai biết, Lễ đài được xây dựng chỉ trong 48 giờ, với gỗ, ván, đinh, vải - nhiều phần được huy động gom góp từ nhân dân. Khâu chuẩn bị tổ chức Lễ Tuyên ngôn cũng diễn ra “thần tốc” trong vòng 4 ngày. Dưới điều kiện thời gian gấp rút, Hội Văn hóa Cứu quốc đã có những đóng góp cho quá trình chuẩn bị của sự kiện lịch sử này.
Tháng 4/1943, Hội Văn hóa Cứu quốc (HVHCQ) thành lập trên tinh thần bản Đề cương văn hóa Việt Nam của Tổng bí thư Trường Chinh. Hội là một trong các tổ chức cứu quốc thuộc Mặt trận Việt Minh, quy tụ đông đảo văn nghệ sĩ nổi tiếng gia nhập như nhà viết kịch Học Phi, các nhà văn, nhà báo như Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Thép Mới, Thôi Hữu, Hoàng Đạo Thúy…
Năm 1943-1944, Hội thực hiện nhiều hoạt động tuyên truyền chống phát-xít và phát triển ảnh hưởng của Việt Minh trong giới văn nghệ sĩ, trí thức. Tháng 8/1945, tích cực chuẩn bị Hà Nội Tổng khởi nghĩa, các thành viên Hội Văn hóa Cứu quốc chạy đôn đáo lo vải đỏ, vàng, may quốc kỳ, khẩu hiệu, băng rôn; hàng nghìn cờ đỏ sao vàng nhỏ… cùng hệ thống micro, loa truyền thanh... đặt trong buổi mít-tinh trước quảng trường Nhà hát thành phố ngày 19/8.
Đặc biệt, năm 1945, Hội đã góp sức dựng lễ đài, trang trí toàn bộ khu vực vườn hoa Ba Đình để Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố nước Việt Nam độc lập tự do, và để Chính phủ lâm thời ra mắt đồng bào vào ngày 2/9.
Theo ghi chép của nhà văn Phùng Quán (trong tập Nhớ Phùng Quán của Nhà xuất bản Trẻ, ra mắt năm 2004), ông Nguyễn Hữu Đang - Thành viên Hội Văn hóa Cứu quốc, Trưởng Ban tổ chức Buổi lễ - kể lại rằng: “Tôi còn nhớ như in ngày hôm đó là ngày 28 tháng 8… Tại sao tôi nhớ, vì đó là thời khắc lịch sử phải được tính từng phút một…”.
Ngày 28/8/1945, ông Nguyễn Hữu Đang lần đầu tiên gặp mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Đang kể lại, “Ông Cụ ngồi ở ghế tựa, mặc bộ quần áo chàm, tay chống lên ba toong. […] Cụ Hồ nhìn tôi một lúc với cặp mắt rất sáng, cặp mắt mà về sau này nhân dân cả nước đồn rằng có bốn con ngươi - như muốn cân nhắc, đánh giá người mà Cụ quyết định giao trọng trách.
Cụ hỏi tôi với giọng Nghệ pha, rất giống giọng cụ Phan Bội Châu mà có lần tôi đã được nghe: ‘Chính phủ lâm thời quyết định làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào vào ngày mồng hai tháng chín. Chú có đảm đương được việc tổ chức buổi lễ không?’. Tôi tính rất nhanh trong đầu: tháng 8 có 31 ngày, như vậy là chỉ còn 4 ngày nữa thôi... Tôi suy nghĩ cân nhắc trong từng phút. Hình dung ra tất cả những khó khăn như núi mà tôi phải vượt qua... để tổ chức được một ngày đại lễ như vậy, trong khi mình chỉ có hai bàn tay trắng. Tôi nói với Cụ Hồ: “Thưa Cụ, việc cụ giao là quá khó vì gấp quá rồi”. Cụ Hồ nói ngay: ‘Có khó thì mới giao cho chú chứ!’”. Nghe vậy, ông Đang lòng bừng khí thế, xin nhận nhiệm vụ.
Ngay sau đó, ông Nguyễn Hữu Đang thảo thông cáo gửi tới các báo, huy động góp sức, góp của từ đồng bào. Sáng hôm sau, đồng bào tập hợp trong ngoài chật kín nơi tiếp nhận đóng góp. Người ghi tên vào các vị trí phụ giúp, người góp tiền, góp vàng, góp vải vóc, gỗ ván.
Cùng thời gian đó, ông Phạm Văn Khoa - một đạo diễn lão thành của nền điện ảnh cách mạng Việt Nam, cũng là thành viên Hội Văn hóa Cứu quốc - tới gặp kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh, truyền đạt yêu cầu của Kỳ bộ Việt Minh về việc thiết kế Kỳ đài để chiều ngày 2/9 Hồ Chủ tịch đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập. Gặp nhau đầu giờ sáng, ông Khoa hẹn 12h trưa quay lại ngay để xem bản vẽ. Ông Quỳnh lập tức đạp xe tới Quảng trường Ba Đình để khảo sát địa hình, vẽ ra 3 phương án.
Sau khi thảo luận với nhiều thành viên Hội Văn hóa Cứu quốc, tổ chức quyết định chọn bản vẽ thứ nhất. Ông Nguyễn Hữu Đang tổ chức nhanh một buổi họp, duyệt bản vẽ của ông Quỳnh, giao nhiệm vụ cho họa sĩ Lê Văn Đệ chịu trách nhiệm thiết kế trang trí lễ đài, giao ông Ngô Huy Quỳnh đảm nhiệm thi công.
Ông Đang nói: “Lễ đài phải được dựng xong trong vòng 48 giờ đồng hồ. Đúng 5 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 9, tôi sẽ đến nghiệm thu. Chúc các anh hoàn thành nhiệm vụ”.
Ngày 31/8/1945, ông Đang soạn thảo hàng loạt thông cáo gửi Thị trưởng Hà Nội, đề nghị các chùa chiền đốt trầm hương suốt ngày 2/9; treo cờ ở vườn hoa Ba Đình và các phố lân cận; yêu cầu ông Thị trưởng thông báo cho các Phố trưởng, báo tin cho toàn dân về sự kiện.
Cùng lúc đó, Ban thi công Kỳ đài liên hệ với Thành ủy Hà Nội xin xe để chở vật liệu, tới xưởng gỗ mượn gỗ, tới các cửa hiệu chợ Đồng Xuân mượn vải. Đi tới đâu, Ban thi công cũng được đón tiếp niềm nở.
Ông Phạm Văn Khoa đến thuê ông Quyến, một thợ mộc giỏi nhất phố Hàng Hành. Xem bản vẽ, ông Quyến tính số khung, số ván, số đinh và một số vật liệu khác để Ban Tổ chức chuẩn bị. Ông Khoa nhờ ông Quyến huy động thêm 10 người thợ mộc. Ông cũng huy động 40 anh em ở Ban Cổ động, Ban Khánh tiết, Ban Khoa giáo phụ việc.
12h30 ngày 1/9/1945, Kỳ đài bắt đầu được thi công. Theo các ghi chép, “Nơi dựng Kỳ đài là bồn cỏ tròn, trước các cổng cuốn tròn tỳ trên hệ thống cột kiến trúc theo kiểu Toscan (Pháp). Công trình này màu vàng nhạt như hai tay ôm lấy phía sau lễ đài, cùng với khối cây cổ thụ màu xanh như đóng vai trò 'trẩm' theo cách nhìn phong thủy mà bà con nhân dân quen thuộc”.
Trong đêm, tiếng đục, tiếng đóng đinh vẫn chan chát. Khi Kỳ đài vừa dựng lên, mọi người bọc vải, ken hoa và chuẩn bị hệ thống âm thanh. Gần 6h sáng 2/9/1945, Kỳ đài hoàn thành xây dựng. Kỳ đài cao hơn 4 m, trên đó có một cột cờ cao hơn 10 m. Công trình có cấu trúc bốn mặt hình thang phủ vải đỏ, ở giữa có hình ngôi sao năm cánh, trên thành phủ vải vàng. Hai bên có hai lư hương lớn bằng gỗ, tỏa khói đầy thiêng liêng.
13h chiều, nhân dân hội họp tại Hội quán Khai trí và bắt đầu đi lên vườn hoa Ba Đình. Ông Quỳnh kể lại, khi đứng trên Kỳ đài kiểm tra công trình lần cuối, ông thấy hàng hàng người đang tiến về Quảng trường Ba Đình, ai nấy cầm băng rôn biểu ngữ "Nước Việt Nam của người Việt Nam"; "Ủng hộ Chính phủ Hồ Chủ tịch"; "Mặt trận Việt Minh muôn năm"; "Hồ Chủ tịch muôn năm"… Khói thơm từ hai lư hương tỏa ra khiến không khí càng thêm uy nghiêm, mang tầm vóc lịch sử.
Vào 14h chiều, buổi lễ bắt đầu. Người dân đứng ở quảng trường, xúc động nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”, rồi nghe Bác đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập. Và Ngày Quốc Khánh đã đi vào lịch sử, khép lại cuộc Cách mạng Tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như thế.
Nguồn tin: znews.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin cũ hơn