Triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, thời gian qua,Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành liên quan đã rất nỗ lực xây dựng và phê duyệt quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và triển khai Luật Quy hoạch nói chung. Ngày 21/6, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội nghị công bố quy hoạch và xúc tiến đầu tư vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030. Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long lần này là quy hoạch vùng đầu tiên được ban hành theo Luật Quy hoạch, thể hiện “tư duy mới, tầm nhìn mới, giá trị mới, cơ hội mới” cho tương lai phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nhất là trong bối cảnh thích ứng biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Tham dự Hội nghị có Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn; Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Cửu Long; đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành, địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng trình bày báo cáo về thế mạnh và khả năng thúc đẩy liên kết vùng Đồng bằng sông Cửu Long về văn hóa, thể thao, du lịch đến năm 2030.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu về xúc tiến thương mại phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và định hướng phát triển năng lượng tái tạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, vùng ĐBSCL có vị thế, vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; là vùng sản xuất và xuất khẩu lương thực, thực phẩm và trái cây lớn của cả nước. Đây còn là vùng có vị trí chiến lược về quốc phòng - an ninh, giàu tiềm năng về tài nguyên và năng lượng tái tạo, có nhiều lợi thế phát triển kinh tế biển, biên mậu và giao thương quốc tế…
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, vùng ĐBSCL vẫn chưa khai thác hết tiềm năng và lợi thế của mình, chưa tranh thủ được độ mở cao của nền kinh tế với nhiều hiệp định thương mại tự do (cả song phương và đa phương) đã được ký kết để thúc đẩy phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Sản xuất nông nghiệp của vùng còn manh mún, chưa có quy hoạch bảo đảm, sản xuất chưa theo tín hiệu của thị trường; nhiều loại nông sản, trái cây chưa được chế biến, chủ yếu là xuất khẩu thô và tiêu thụ qua đường tiểu ngạch, chất lượng sản phẩm không ổn định, chưa đáp ứng được tiêu chuẩn của các thị trường xuất khẩu; liên kết trong chuỗi giá trị sản xuất và tiêu thụ sản phẩm còn yếu. Sản xuất công nghiệp của vùng chủ yếu vẫn tập trung vào các ngành thâm dụng đất đai, lao động với giá trị thấp; phát triển năng lượng còn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế…
Để khắc phục tình trạng trên, thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ cùng các bộ, ngành địa phương trong vùng tập trung thực hiện những nội dung sau:
Trước hết, Bộ sẽ khẩn trương xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về một số nhiệm vụ thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững vùng ĐBSCL, chủ động thích ứng biến đổi khí hậu để cụ thể hóa các nhiệm vụ được giao cho ngành, làm cơ sở tổ chức thực hiện đồng bộ, xuyên suốt trong toàn ngành từ trung ương đến địa phương.
Thứ hai là nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại phát triển mạnh mẽ thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, theo đó, Bộ sẽ:
(1) Chủ động tăng cường cung cấp thông tin thị trường, tăng cường kết nối tiêu thụ nông sản, hỗ trợ khai thác lợi thế của các FTA cho các địa phương, DN trong vùng; tổ chức triển khai hiệu quả Đề án Đổi mới phương thức kinh doanh tiêu thụ nông sản nhằm tiêu thụ tối đa sản phẩm nông sản.
(2) Trong khuôn khổ Chương trình cấp quốc gia về xúc tiến thương mại, Bộ sẽ phối hợp với các địa phương xây dựng đề án xúc tiến thương mại quy mô cấp vùng với các hình thức xúc tiến thương mại khác nhau tại khu vực ĐBSCL, xúc tiến nông sản tại nước ngoài, quảng bá sản phẩm trên môi trường số, qua các kênh phân phối truyền thống và các sàn giao dịch thương mại điện tử.....
(3) Trong khuôn khổ Chương trình Thương hiệu quốc gia, Bộ sẽ tiếp tục hỗ trợ các địa phương quảng bá thương hiệu nông sản, sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tại thị trường trong nước và xuất khẩu; khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp đăng ký tham gia, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm nông sản của vùng.
(4) Phối hợp các bộ, ngành chức năng trong đàm phán mở cửa thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng trái cây và nông sản; làm tốt việc công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn kỹ thuật, duy trì và đảm bảo chất lượng hàng hóa đáp ứng tiêu chuẩn của các thị trường.
Nhân hội nghị này, Bộ trưởng Bộ Công Thương đề nghị các địa phương trong Vùng phối hợp thực hiện:
Một là, quy hoạch lại vùng trồng, vùng nuôi hợp lý; thu hút đầu tư trong sản xuất, chế biến và ứng dụng công nghệ bảo quản nhằm nâng cao chất lượng và hàm lượng giá trị của sản phẩm; xây dựng thương hiệu, mã số, vùng trồng, vùng nuôi để hàng hóa đáp ứng các tiêu chuẩn của các thị trường xuất khẩu; Kết nối với các cơ quan chức năng của Bộ và các Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài nắm bắt các thông tin thị trường để định hướng cho sản xuất.
Hai là, hướng dẫn doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng chuyển nhanh, chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch theo tiêu chuẩn và quy định của thương mại quốc tế. Chú trọng công tác marketing, xây dựng thương hiệu, bảo hộ những sản phẩm đặc sản từng vùng miền, có chỉ dẫn địa lý để hàng hóa ĐBSCL có chỗ đứng và đi sâu vào các khu vực thị trường thay vì tập trung chủ yếu ở các thị trường khu vực gần biên giới.
Ba là, chủ động xây dựng kế hoạch xúc tiến thương mại phù hợp với nhu cầu và năng lực xúc tiến thương mại của doanh nghiệp địa phương, chú trọng khai thác hiệu quả các công cụ số, đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng CNTT trong xúc tiến thương mại; Triển khai hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại mang tính liên kết vùng theo Kế hoạch xúc tiến thương mại cấp Vùng do các địa phương đã thống nhất xây dựng với sự hướng dẫn của Bộ Công Thương;
Bốn là, tập trung quy hoạch, xây dựng hoàn thiện hệ thống hạ tầng (giao thông, vận tải, logistics…) nhằm tăng khả năng kết nối phục vụ lưu thông, tiêu thụ các sản phẩm nông sản chủ lực.
Thứ ba, về định hướng phát triển năng lượng tái tạo
Phát triển năng lượng tái tạo là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước đã được cụ thể hóa tại Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tại COP26, Việt Nam đã cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và giảm 30% lượng phát khí nhà kính vào năm 2030, đây là cơ hội rất lớn cho phát triển năng lượng tái tạo của toàn vùng.
Tại Dự thảo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) đã được Bộ Công Thương trình Chính phủ, dự kiến tỉ lệ công suất nguồn năng lượng gió, mặt trời chiếm tỉ trọng 18-23% tổng công suất hệ thống. Theo danh mục nguồn điện trong Dự thảo Quy hoạch điện VIII, khu vực Nam Bộ (bao gồm cả Vùng ĐBSCL) dự kiến đến năm 2030 phát triển khoảng gần 8.000 MW điện gió trên bờ và ngoài khơi; điện mặt trời phát triển giai đoạn sau năm 2030. Quy hoạch lần này chỉ quy hoạch tổng quy mô công suất theo vùng, miền, không quy hoạch dự án cụ thể. Sau khi Quy hoạch điện VIII được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Công Thương sẽ xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện. Riêng các dự án mua bán điện trực tiếp và sử dụng tại chỗ, Bộ đang trình các cấp có thẩm quyền cho phép để triển khai thực hiện.
Nhân hội nghị này, Bộ Công Thương đề nghị các địa phương: (1) Sau khi Quy hoạch điện VIII được phê duyệt, phối hợp chặt chẽ với Bộ trong việc khảo sát, đề xuất các dự án phát triển năng lượng tái tạo phù hợp với tiềm năng và lợi thế của từng địa phương, chú trọng các dự án liên kết vùng, tích hợp vào quy hoạch tỉnh (2) Đẩy mạnh thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước để sớm trở thành trung tâm về năng lượng sạch, năng lượng tái tạo của đất nước (3) Tập trung cải cách hành chính, môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi trong giải phóng mặt bằng cho các dự án (4) Chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng.
Để triển khai hiệu quả Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ và Quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, về phía Hội đồng điều phối Vùng, cần có cơ chế đối thoại định kỳ để kịp thời thảo luận, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thể trình bày về kế hoạch đầu tư phát triển hạ tầng giao thông vận tải vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2025-2030.
08:48 ngày 21/06/2022Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan trình bày báo cáo tái cơ cấu nông nghiệp và thu hút đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, hệ thống kết cấu hạ tầng thủy lợi vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
08:18 ngày 21/06/2022Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trình bày về các điểm mới nổi bật và ý nghĩa của Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và định hướng triển khai thực hiện:
Đồng bằng sông Cửu Long có vị trí, vai trò chiến lược đặc biệt quan trọng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Kinh tế-xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã đạt kết quả khá toàn diện, trở thành vùng trọng điểm nông nghiệp, là trụ đỡ bảo đảm an ninh lương thực, có nhiều sản phẩm xuất khẩu chủ lực, nhất là lúa, tôm, cá tra, trái cây. Tuy nhiên, sự phát triển của vùng còn khó khăn, chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế, do nhiều nguyên nhân nội vùng và ngoại vùng.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều quyết sách và giải pháp để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội của Vùng như: Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 13–NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu và Nghị quyết số 78/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13–NQ/TW. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 825/QĐ-TTg về việc thành lập và ban hành quy chế hoạt động của Hội đồng điều phối vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2020-2025.
Thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao tại Nghị quyết số 120/NQ-CP, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì phối hợp với các bộ, ngành và các địa phương trong vùng nghiên cứu, xây dựng quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 287/QĐ-TTg.
Trong quá trình lập quy hoạch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, cơ quan liên quan, 13 địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long, các đối tác phát triển; tổ chức nhiều hoạt động lấy ý kiến rộng rãi, nhất là ý kiến các chuyên gia trong nước và ngoài nước am hiểu Vùng, để xây dựng bản Quy hoạch có cơ sở khoa học và thực tiễn.
Để phác họa bức tranh toàn cảnh về thời cơ mới và vận hội mới của vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh thực hiện những quyết sách nêu trên của Đảng và Nhà nước, tôi xin trình bày các nội dung về Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long; Kế hoạch thực hiện quy hoạch; Nguồn lực thực hiện quy hoạch; Các cơ hội đầu tư mới và việc điều phối phát triển Vùng trong thời kỳ tới.
Thứ nhất, về Quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long
Quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long là nhằm cụ thể hóa và triển khai tư duy mới, tầm nhìn mới tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2021-2030 và các định hướng, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; từ đó mở ra các cơ hội phát triển mới và định hình các giá trị mới cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo đó, Quy hoạch xác định các đột phá mang tính chiến lược như sau:
Thứ nhất, phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long theo hướng bền vững, tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, dựa trên ba trụ cột: kinh tế - xã hội – môi trường; chú trọng bảo vệ, tôn tạo và phát triển hệ sinh thái tự nhiên hướng tới một mô hình kinh tế xanh, lấy "con người" làm trung tâm.
Thứ hai, biến thách thức thành cơ hội, "chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn"; chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng gia tăng hiệu quả và giá trị, trong đó chú trọng huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực về con người và khoa học và công nghệ. Đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế vùng theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; công nghiệp năng lượng là đột phá, dịch vụ là bệ đỡ.
Thứ ba, thay đổi tư duy về an ninh lương thực từ việc phát triển nông nghiệp dựa vào cây lúa sang thủy sản - trái cây - lúa gạo phù hợp với thị trường, trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại phân vùng sản xuất dựa trên tài nguyên nước và thổ nhưỡng.
Thứ tư, chuyển đổi mô hình phát triển từ phân tán, nhỏ lẻ sang tập trung cả về nông nghiệp, công nghiệp và đô thị; phấn đấu đến năm 2030 vùng đồng bằng sông Cửu Long trở thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao của quốc gia, khu vực và thế giới trên cơ sở tập trung nguồn lực đầu tư các hành lang phát triển, khu vực phát triển động lực, trung tâm đầu mối nông nghiệp được xác định trong quy hoạch.
Thứ năm, tập trung phát triển kết cấu hạ tầng với vai trò bệ đỡ cho phát triển kinh tế- xã hội và thúc đẩy liên kết vùng, đặc biệt chú trọng đến phát triển hạ tầng giao thông, nhất là các tuyến kết nối với thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ thông qua 2 trục cao tốc đường bộ, tuyến đường thuỷ nội địa và tuyến đường sắt nối thành phố Hồ Chí Minh với Cần Thơ trong tương lai. Phát triển tuyến đường bộ ven biển từ Tiền Giang đến Kiên Giang, gắn với kiểm soát xâm nhập mặn, sắp xếp lại dân cư, bảo đảm quốc phòng an ninh, hình thành hành lang kinh tế mở, hướng ra biển. Đến năm 2030, đầu tư xây dựng mới và nâng cấp khoảng 830 km đường bộ cao tốc; khoảng 4.000 km đường quốc lộ; 04 cảng hàng không; 13 cảng biển, 11 cụm cảng hành khách và 13 cụm cảng hàng hóa đường thủy nội địa.
Thứ sáu, tập trung phát triển hành lang đô thị công nghiệp từ Cần Thơ đến Long An kết nối với thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam bộ và hệ thống 8 trung tâm đầu mối về nông nghiệp; phát triển hành lang kinh tế, đô thị dọc sông Tiền - sông Hậu từ An Giang đến Sóc Trăng gắn với phát triển cảng biển Trần Đề nhằm kết nối, giao thương quốc tế về đường bộ gắn với đường thủy nội địa và hàng hải.
Thứ bảy, thay đổi tư duy về khai thác, sử dụng tài nguyên nước: coi nước mặn, nước lợ là một nguồn tài nguyên bên cạnh nước ngọt; chuyển từ đáp ứng nhu cầu sang chủ động quản lý nhu cầu về nước; khai thác, sử dụng tài nguyên nước phù hợp với phân vùng chức năng của nguồn nước.
Thứ tám, chú trọng bảo tồn các cảnh quan, sinh thái, văn hóa lịch sử, văn hóa dân tộc, văn hóa sông nước đặc thù của vùng. Đặc biệt là thành lập và vận hành hàng lang đa dạng sinh học ở khu vực ven biển từ Vườn quốc gia mũi Cà Mau đến khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ; phát triển các không gian văn hóa đặc thù của vùng như văn hóa sông nước, văn hóa các cộng đồng dân tộc thiểu số với phát triển du lịch.
Thứ chín, tăng cường liên kết phát triển giữa các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long với với thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ; mở rộng giao thương với các nước trong khu vực ASEAN, đặc biệt là các nước thuộc Tiểu vùng sông Mê Công nhằm khơi thông, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.
Toàn bộ Hồ sơ Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long được công bố tại Hội nghị ngày hôm nay, được chuyển giao cho địa phương và thông tin công khai tại Cổng thông tin quy hoạch quốc gia.
Thứ hai, về Kế hoạch thực hiện quy hoạch
Ngay sau khi quy hoạch được phê duyệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng Kế hoạch thực hiện quy hoạch, bao gồm 04 nhóm nhiệm vụ trọng tâm, đó là:
(1) Phát triển kinh tế nông nghiệp giá trị cao, hiệu quả cao, chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, trong đó tập trung phát triển các trung tâm đầu mối, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, công nghệ cao, đảm bảo an toàn thực phẩm.
(2) Phát triển khu vực đô thị - công nghiệp động lực, trong đó tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, liên tỉnh, hệ thống logistics, hạ tầng kỹ thuật của khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp; các công trình nguồn và lưới điện, phát huy có hiệu quả tiềm năng về dầu khí và năng lượng tái tạo.
(3) Xây dựng môi trường sống tốt, điểm đến hấp dẫn: Xây dựng và triển khai Chương trình phát triển các điểm nguồn nước ngọt dự trữ chiến lược trên toàn vùng; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ giáo dục – đào tạo, y tế, du lịch có khả năng cạnh tranh ở cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế tại thành phố Cần Thơ; Chương trình phát triển thương hiệu du lịch đồng bằng sông Cửu Long tầm cỡ quốc tế gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa - lịch sử; bảo tồn các hệ sinh thái đất ngập nước quan trọng, đa dạng sinh học biển, hải đảo.
(4) Quản lý, điều phối thực hiện quy hoạch vùng: Hội đồng điều phối vùng đồng bằng sông Cửu Long giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo điều phối, đôn đốc, các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện thống nhất các nhiệm vụ, chương trình, dự án, đề án theo Quy hoạch.
Thứ ba, về nguồn lực thực hiện Quy hoạch
Để tiếp tục ưu tiên đầu tư cho vùng ĐBSCL, trên cơ sở kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Thường vụ quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 973 ngày 08/7/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 26 ngày 14/09/2020 về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025, trong đó quy định các tiêu chí tính điểm của Vùng ưu tiên cao hơn các Vùng khác trong cả nước.
Trong giai đoạn 2021-2025, tổng số vốn ngân sách nhà nước dự kiến hỗ trợ cho các dự án trên địa bàn do địa phương quản lý dự kiến đạt khoảng 320 nghìn tỷ đồng, tăng 23,3% so với giai đoạn 2016-2020, trong đó:
Nguồn vốn cân đối ngân sách địa phương là khoảng 178 nghìn tỷ đồng; Nguồn vốn ngân sách trung ương là khoảng 82 nghìn tỷ đồng, tăng 41,2% so với giai đoạn 2016-2020; Nguồn vốn nước ngoài (ODA) là 60 nghìn tỷ đồng (trong đó bao gồm 46 nghìn tỷ đồng khoản hỗ trợ DPO), chiếm 30% tổng ODA cả nước trong giai đoạn 2021-2025, trong khi con số tương ứng giai đoạn 2016-2020 là 7,66%.
Ngoài ra, vốn ngân sách nhà nước đầu tư qua một số Bộ như Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế... để triển khai các công trình dự án trong Vùng đạt khoảng 140 nghìn tỷ đồng. Tổng số vốn ngân sách nhà nước đầu tư dự kiến giai đoạn 2021-2025 của Vùng khoảng 460 nghìn tỷ đồng.
Với số vốn được bố trí như trên, sẽ hoàn thành một số công trình trọng điểm của vùng, như các tuyến đường bộ cao tốc (Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ, Cần Thơ - Cà Mau, Châu Đốc - Cần Thơ – Sóc Trăng), các tuyến đường quốc lộ; toàn bộ tuyến đường ven biển; một số trục động lực quan trọng kết nối với TP. Hồ Chí Minh, vùng Đông Nam Bộ; cảng hàng không; các công trình thủy lợi cấp nước, trữ nước, kiểm soát mặn v.v..
Trong đó, thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải và 13 tỉnh, thành phố trong vùng đồng bằng sông Cửu Long làm việc với nhóm 6 ngân hàng phát triển quan tâm (bao gồm: ADB, KEXIM, AFD, KfW, JICA, WB) thống nhất tài trợ khoảng 2,2 tỷ đô la để triển khai 20 dự án liên kết vùng trong giai đoạn 2021 - 2025.
Để thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc tăng cường đầu tư, tạo bước đột phá về hạ tầng trong vùng cũng như thể hiện sự cam kết của các nhà tài trợ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Thủ tướng Chính phủ tổ chức Lễ công bố cam kết tài trợ thực hiện các dự án phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 - 2025 giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các tổ chức quốc tế tại Hội nghị hôm nay.
Thứ tư, về cơ hội đầu tư tại Vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Dù đã nhận được nguồn vốn đầu tư phát triển lớn, việc thực hiện quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có thể đạt kết quả cao nhất nếu huy động thành công các dự án đầu tư từ mọi thành phần kinh tế và khơi dậy, nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh mạnh mẽ của doanh nghiệp và người dân.
Với tầm nhìn, định hướng phát triển vùng được xác định rõ ràng, nhất quán, các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đang được tập trung đầu tư lớn và đồng bộ, các doanh nghiệp và nhà đầu tư có rất nhiều cơ hội mở rộng sản xuất, gia tăng đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Trong đó, các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư bao gồm: đầu tư PPP phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội; nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp kết hợp du lịch, nông nghiệp giá trị cao; công nghiệp chế biến, công nghiệp chế tạo, các ngành hỗ trợ cho sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản; công nghiệp năng lượng, đặc biệt là năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; công nghiệp công nghệ cao; chuyển đổi số; dịch vụ vận tải logistics; dịch vụ y tế, giáo dục; du lịch và bất động sản.
Thứ năm, về điều phối phát triển vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2025
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan nghiên cứu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 825/QĐ-TTg ngày 12/6/2020 về việc thành lập và ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng điều phối vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong đó xác định rõ 04 hoạt động liên kết và 08 phương thức điều phối.
Để triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị, Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long, công tác điều phối phát triển vùng trong giai đoạn tới tập trung triển khai một số nội dung sau:
- Điều phối, liên kết trong việc triển khai lập các quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị, quy hoạch ngành, lĩnh vực có liên quan đảm bảo thống nhất với Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long đã được phê duyệt.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng và phương án huy động nguồn lực; huy động và phân bổ vốn đầu tư đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung, thiết lập hệ thống thông tin vùng; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Công tác điều phối phát triển vùng có ý nghĩa quan trọng trong việc triển khai thực hiện Quy hoạch vùng, thúc đẩy quá trình liên kết, hợp tác giữa các địa phương trong các chương trình dự án liên kết vùng, liên tỉnh. Qua đó, tạo nên sức mạnh tổng hợp, khai thác phát huy có hiệu quả các nguồn lực hướng đến các tầm nhìn, giá trị và lợi ích chung của toàn vùng.
Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ và Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã xác định rõ Tư duy mới - Tầm nhìn mới - Cơ hội mới - Giá trị mới cho vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Triển khai hiệu quả chủ trương của Đảng và Nhà nước, với quyết tâm cao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, ngành, các địa phương trong Vùng và địa phương liên kết với Vùng, và sự ủng hộ, đồng lòng, đồng hành của các nhà tài trợ, doanh nghiệp, người dân; chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng rằng việc thực hiện Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ chắc chắn thành công.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ đón nhận làn sóng đầu tư mới, đạt được phát triển nhanh, bền vững, bứt phá trong thời kỳ tới, người dân được hạnh phúc với một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Nhân dịp này, thay mặt Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tôi xin cảm ơn sự quan tâm, ủng hộ của Quốc hội, sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự hợp tác chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương, các đối tác phát triển, các cơ quan báo chí và truyền thông và các chuyên gia, người dân trong việc triển khai lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn công bố Nghị quyết số 78/NQ-CP ngày 18/6/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quyết định số 278/QĐ-TTg ngày 28/2/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng và Bí thư Thành ủy Cần Thơ Lê Quang Mạnh đã cắt băng khai mạc Triển lãm ảnh nghệ thuật "Đồng bằng sông Cửu Long - Khát vọng phát triển".
Nguồn tin: baochinhphu.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn