Họp báo thường kỳ quý II/2025 dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân. Tham dự họp báo còn có lãnh đạo các đơn vị chức năng trong Bộ Công Thương như: Văn phòng Bộ; Vụ Kế hoạch, Tài chính và Quản lý doanh nghiệp; Cục Quản lý và phát triển thị trường trong nước; Cục Phòng vệ thương mại, Cục Xuất nhập khẩu; Cục Điện lực; Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia... và các đơn vị liên quan cùng nhiều phóng viên, nhà báo đến từ các cơ quan báo chí.
Báo cáo về tình hình sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại 6 tháng đầu năm 2025, bà Mai Thu Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Tài chính và Quản lý doanh nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết, năm 2025, kinh tế thế giới khó dự đoán hơn do tiếp tục đối mặt với nhiều yếu tố phức tạp: Xung đột vũ trang tại một số nước, bất ổn thương mại toàn cầu, hiện tượng thiên tai, thời tiết cực đoan đe dọa tới chuỗi cung ứng, an ninh lương thực, an ninh kinh tế, gây áp lực lên giá hàng hóa thiết yếu. Gần đây nhất, chính quyền của Tổng thống Donald Trump công bố áp dụng thuế nhập khẩu 10% toàn bộ hàng nhập khẩu vào Mỹ, đặc biệt là các đối tác thương mại lớn nhất sẽ chịu thuế đối ứng ở mức cao dẫn đến việc nhiều nước đe dọa áp thuế trả đũa, đẩy nguy cơ nổ ra chiến tranh thương mại cao. Những yếu tố bất ổn này sẽ ảnh hưởng lớn tới nhiều nước trên nhiều phương diện khác nhau, nhất là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, tiền tệ và thu hút đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, hàng loạt tổ chức tài chính quốc tế và khu vực đã hạ thấp dự báo tăng trưởng năm 2025 do tác động của chính sách thuế quan, bảo hộ thương mại của Hoa Kỳ và xung đột và rủi ro địa chính trị. Theo dự báo của Ngân hàng thế giới, tăng trưởng toàn cầu sẽ ổn định ở mức 2,7% trong giai đoạn 2025 -2026; Liên hợp quốc (UN) dự đoán sẽ duy trì ở mức 2,8% chủ yếu do bị kìm hãm bởi hai nền kinh tế hàng đầu là Mỹ và Trung Quốc; OECD hạ dự báo tăng trưởng xuống khoảng 2,3 - 2,9%, mức thấp nhất trong nhiều thập kỷ. Trong thực tế, từ đầu năm đến nay, kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm hơn kỳ vọng, trong đó có một số đối tác thương mại lớn của Việt Nam: Quý I, kinh tế Mỹ tăng trưởng âm 0,3%; kinh tế Trung Quốc đạt mức tăng trưởng 5,4% (Vượt dự báo là 5,1%) nhưng đang đối mặt với áp lực giảm phát; kinh tế Châu Âu tăng trưởng yếu; kinh tế Hàn Quốc giảm 0,2%;….
Để đảm bảo tăng trưởng năm 2025, các nước lớn tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ; một số nước sử dụng chính sách tài khóa, các gói kích thích kinh tế quy mô lớn để hỗ trợ tăng trưởng;… Tín hiệu tích cực là lạm phát tại các khu vực trên thế giới có xu hướng giảm, tác động tích cực đến đời sống người dân và hỗ trợ phục hồi kinh tế thế giới (Lạm phát của Mỹ giảm từ 3% tháng 1 xuống 2,8% tháng 2 và xuống mức 2,4% vào tháng 3; lạm phát của khu vực đồng Euro giảm nhẹ từ 2,5% tháng 1 còn 2,4% trong tháng 2 do giá của dịch vụ và năng lượng giảm; Trung Quốc dù đang áp dụng gói kích cầu quy mô lớn nhưng vẫn giảm phát từ 0,5% trong tháng 1 còn - 0,7% trong tháng 2;…); Xu hướng chuyển dịch về đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu chuyển dịch theo hướng kinh tế xanh - tuần hoàn - carbon thấp: Các dự án FDI đang định hình ưu tiên phát triển bền vững, thân thiện môi trường; Chính sách thương mại mới của Mỹ và các nền kinh tế lớn dẫn đến tái phân bổ lại chuỗi cung ứng và dòng vốn đầu tư, hướng đến sự an toàn, ổn định và bền vững; xu hướng dịch chuyển nguồn cung gần thị trường tiêu thụ ngày càng rõ nét nhằm giảm thiểu rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng; Đầu tư toàn cầu hướng mạnh sang lĩnh vực kỹ thuật số. Các công ty đa quốc gia trong lĩnh vực này phát triển nhanh làm thay đổi bản chất của dòng vốn FDI truyền thống (từ đầu tư vật chất sang đầu tư công nghệ và dữ liệu);…
Việt Nam chịu ảnh hưởng khá nhiều từ những tác động trên, đặc biệt là việc áp thuế đối ứng 46% đối với hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ (cùng với Trung Quốc, Campuchia, Indonesia, Myanmar); rào cản thương mại phi thuế quan từ các nước phát triển thông qua tiêu chuẩn mới về môi trường - lao động - chống biến đổi khí hậu như các quy định về CBAM (Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon) của EU, Luật chống phá rừng (EU), yêu cầu về sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường trong thương mại của Mỹ làm tăng yêu cầu tuân thủ đối với các nước xuất khẩu như Việt Nam. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam đang tận dụng tốt các FTA, đặc biệt là FTA thế hệ mới (như EVFTA, CPTPP...) để tạo ra cơ hội mở rộng xuất nhập khẩu, tiếp cận các thị trường lớn, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện năng lực sản xuất, chất lượng và tính bền vững trong chuỗi cung ứng. Vì vậy, Việt Nam duy trì ổn định kinh tế, ổn định xã hội trong bối cảnh biến động của địa chính trị và kinh tế thế giới diễn ra phức tạp, nhiều khó khăn thách thức sẽ tiếp tục tạo ra những thuận lợi trong thu hút đầu tư và thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Các tổ chức quốc tế đều dự báo tích cực về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2025 (Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo quy mô kinh tế Việt Nam sẽ đạt 506 tỷ USD, đứng thứ 33 toàn cầu; Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo tăng trưởng GDP ở mức 6,8%, đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực Đông Á - Thái Bình Dương; Ngân hàng Standard Chartered dự báo tăng trưởng GDP đạt 6,7%, với mức tăng 7,5% trong nửa đầu năm và 6,1% trong nửa cuối năm).
Những cải cách trong chính sách và thể chế được xác định là động lực mạnh mẽ giúp tăng trưởng bứt phá trong năm 2025. “Bộ tứ chiến lược” tạo động lực mới gồm: Nghị quyết số 57/NQ-TW về Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia thúc đẩy nền kinh tế số và thương mại điện tử phát triển tạo động lực mạnh mẽ, thúc đẩy xuất khẩu cũng như tiêu thụ hàng hóa trên thị trường nội địa, đặc biệt là hàng hóa nông sản, thực phẩm; Nghị quyết số 59/NQ-TW về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới cùng với các hiệp định FTA đã ký với các đối tác thị trường lớn sẽ tác động tích cực đối với thương mại, đầu tư và đặc biệt là xuất khẩu; Nghị quyết số 68/NQ-TW về Phát triển kinh tế tư nhân tạo điều kiện hỗ trợ và thúc đẩy doanh nghiệp chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu; đặc biệt là Nghị quyết số 66/NQ-TW về Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới nhằm hướng tới một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi cùng với sự chỉ đạo quyết liệt về đầu tư công, về đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên nhiều địa bàn trọng điểm,... là bước tiến thuận lợi nhất để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025.
Theo bà Mai Thu Hiền, chủ động bám sát chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, Bộ Công Thương linh hoạt chỉ đạo, điều hành theo diễn biến toàn cầu, thực thi các chính sách phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, huy động nguồn lực phát triển, thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ để thúc đẩy sản xuất, tăng cường lưu thông hàng hóa và ổn định thị trường. 6 tháng đầu năm, tình hình phát triển ngành Công Thương như sau:
Về sản xuất công nghiệp
Tính đến 5 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ước tính tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 7,1%), trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 10,8% (cùng kỳ năm 2024 tăng 7,6%); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,2% (cùng kỳ năm 2024 tăng 12,9%); ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,0% (cùng kỳ năm 2024 tăng 5,9%);...
Một số ngành trọng điểm tăng cao so với cùng kỳ như: Sản xuất xe có động cơ tăng 34,3%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 16,8%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 16,1%; sản xuất trang phục tăng 15,7%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 14,1%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 12,4%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 11,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 11,2%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 9,6%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 8,8%.
Sản xuất các sản phẩm công nghiệp chủ lực tăng so với cùng kỳ như: Ô tô tăng 70,3%; tivi tăng 25,6%; khí hóa lỏng LPG tăng 21,7%; phân hỗn hợp NPK tăng 18,8%; quần áo mặc thường tăng 14,6%; thép cán tăng 13,8%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 13,4%; xi măng tăng 12,9%; thép thanh, thép góc tăng 11,7%; giày, dép da tăng 11,5%; đường kính tăng 10,9%.
Đáng chú ý, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng ở 61 địa phương (Riêng Bà Rịa - Vũng Tàu và Cao Bằng giảm lần lượt là 3,4% và 3,3%). Một số địa phương có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng cao so với cùng kỳ do chỉ số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao như: Phú Thọ tăng 46,7%; Nam Định tăng 29,6%; Bắc Giang tăng 28,1%; Bắc Kạn tăng 23,6%; Hà Nam tăng 22,5%; Quảng Ngãi tăng 22,2%;... hoặc do chỉ số sản xuất và phân phối điện tăng cao: Hòa Bình tăng 53,6%; Huế tăng 39,6%; Sơn La tăng 30,5%; Quảng Ngãi tăng 20,3%; Hà Nam tăng 14,1%;....
Về xuất nhập khẩu hàng hóa
Cùng với sự cải thiện trong hoạt động sản xuất công nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của nước ta tiếp tục được đẩy mạnh. 5 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 355,79 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ, trong đó xuất khẩu tăng 14,0%; nhập khẩu tăng 17,5%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 4,67 tỷ USD.
Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 5 tháng ước đạt 180,23 tỷ USD, tăng 14,0% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 49,62 tỷ USD, tăng 12,5%, chiếm 27,5% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 130,61 tỷ USD, tăng 14,5%, chiếm 72,5%. Có 7 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 67,3%.
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu tiếp tục duy trì đà tăng trưởng ấn tượng ở cả nhóm hàng nông, thủy sản và công nghiệp chế biến, ước đạt mức hai con số so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, thủy sản đạt gần 17,7 tỷ USD, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhiều mặt hàng đạt kim ngạch cao nhờ giá xuất khẩu tăng mạnh, như: cà phê (lượng xuất khẩu giảm 0,6% nhưng kim ngạch xuất khẩu ước tăng tới 62,3%); hạt tiêu (lượng xuất khẩu giảm 22,5% nhưng kim ngạch xuất khẩu tăng 40,5%); cao su (giảm 4% về lượng và tăng 21,7% về kim ngạch); nhân điều (giảm 5% về lượng nhưng tăng 19,4% về kim ngạch).
Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến đạt gần 153 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước và tiếp tục là động lực tăng trưởng của xuất khẩu cả nước. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dệt may, giầy dép, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác… đều đạt tốc độ tăng trưởng cao ở mức hai con số. Trong đó, xuất khẩu dệt may đạt 15,06 tỷ USD, tăng 12%; giầy dép các loại đạt 9,75 tỷ USD, tăng 11,5%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 38,4 tỷ USD, tăng 39,7%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác ước đạt 22 tỷ USD, tăng 16,4%; gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 6,8 tỷ USD, tăng 8,6%.
Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu của nước ta tới các hầu hết các thị trường xuất khẩu chủ lực đều tăng, trong đó, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất với kim ngạch đạt 57,2 tỷ USD, chiếm gần 31,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và tăng 27,4% so với cùng kỳ năm trước; EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai với kim ngạch đạt 23 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước; Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba với kim ngạch ước đạt 23,5 tỷ USD, tăng 3,2%; Xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc đạt 11,37 tỷ USD, tăng 10,6%; xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đạt 10,56 tỷ USD, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 5 tháng đầu năm ước đạt 175,56 tỷ USD, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 62,04 tỷ USD, tăng 12,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 113,52 tỷ USD, tăng 20,2%. Có 29 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 86,9% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 4 mặt hàng nhập khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 51,6%).
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu, nhóm hàng cần nhập khẩu tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn và đóng vai trò chủ yếu trong tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước (gồm máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng và nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất trong nước) chiếm tới 89% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu, với kim ngạch đạt gần 156,5 tỷ USD, tăng 17,8% so với cùng kỳ. Một số mặt hàng mức tăng trưởng mạnh như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 56 tỷ USD, tăng tới 38,3% so với cùng kỳ; Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng ước đạt 22,89 tỷ USD, tăng 22,7%; Chất dẻo nguyên liệu: tăng 12,3%; Nguyên phụ liệu dệt may, da giày tăng 3,8%; Vải các loại tăng 4,6%.
Về thị trường nhập khẩu hàng hóa, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch đạt 69,35 tỷ USD, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 39,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước; tiếp theo là Hàn Quốc với kim ngạch nhập khẩu ước đạt 23,67 tỷ USD, tăng 8%; ASEAN ước đạt 22,28 tỷ USD, tăng 16,2%; Nhật Bản ước đạt 9,67 tỷ USD, tăng 7,1%; Hoa Kỳ ước đạt 7,2 tỷ USD, tăng 20%; EU ước đạt 6,7 tỷ USD, tăng 3,4%.
Cán cân thương mại hàng hóa 5 tháng đầu năm xuất siêu 4,67 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 8,71 tỷ USD), trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 12,42 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 17,09 tỷ USD. Phân theo thị trường, xuất siêu sang Hoa Kỳ đạt 49,9 tỷ USD tăng 28,5% so với cùng kỳ; xuất siêu sang EU 16,3 tỷ USD, tăng 16,0%; xuất siêu sang Nhật Bản 0,9 tỷ USD, tăng 74,8%. Nhập siêu từ Trung Quốc đạt 45,9 tỷ USD, tăng 40,3%; nhập siêu từ Hàn Quốc đạt 12,3 tỷ USD, tăng 5,7%; nhập siêu từ ASEAN đạt 6,5 tỷ USD, tăng 66,3% so với cùng kỳ năm trước.
Về thị trường trong nước
Từ đầu năm đến nay, thị trường hàng hóa và giá cả tương đối ổn định, nguồn cung dồi dào, chủng loại đa dạng, phong phú, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng của người dân; không xảy ra hiện tượng khan hiếm hàng hóa. Các dịp nghỉ lễ Giỗ Tổ Hùng Vương và 30/4-1/5 với thời gian nghỉ khá dài nên sức tiêu thụ hàng hóa tăng trưởng, đặc biệt là nhóm du lịch, dịch vụ, đóng góp tích cực cho tăng trưởng của ngành thương mại, dịch vụ.
Tính đến 5 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 2.851,4 nghìn tỷ đồng, tăng 9,7% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 8,8%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,4% (cùng kỳ tăng 5,4%). Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 2.182,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 76,5% tổng mức và tăng 8,2% so với cùng kỳ. Doanh thu bán lẻ hàng hóa của một số địa phương so với cùng kỳ năm trước như sau: Thành phố Hồ Chí Minh tăng 8,6%; Hải Phòng tăng 8,4%; Cần Thơ tăng 7,7%; Hà Nội tăng 7,5%; Đà Nẵng tăng 7,4%,....
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều biến động khó lường, tác động tới chuỗi cung ứng, giá cả nguyên vật liệu, tâm lý tiêu dùng và hoạt động sản xuất kinh doanh, thị trường trong nước đóng vai trò quan trọng, vừa là trụ cột ổn định tăng trưởng, vừa hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt khi thị trường xuất khẩu gặp khó khăn. Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng về chỉ tiêu này, Bộ Công Thương đã ban hành Chỉ thị số 08/CT-BCT ngày 04/4/2025 của Bộ Công Thương về việc thực hiện các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước, kích cầu tiêu dùng năm 2025, trong đó đã giao các nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị trong Bộ, các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, Sở Công Thương tại địa phương nhằm phấn đấu đạt mục tiêu chung là đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước, góp phần tăng trưởng kinh tế của cả nước; đã khẩn trương xây dựng “Kế hoạch triển khai các giải pháp kích cầu tiêu dùng, phát triển thị trường trong nước và đẩy mạnh Cuộc Vận động Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam giai đoạn 2025 - 2026” để thúc đẩy phát triển thị trường trong nước.
Bộ Công Thương đánh giá, nhìn chung, hầu hết các chỉ tiêu quan trọng về sản xuất, thương mại, xuất nhập khẩu, tiêu dùng đều cho thấy xu hướng phục hồi tích cực và bám sát kịch bản tăng trưởng đề ra. Tuy nhiên, vẫn tồn tại rủi ro từ bên ngoài như chính sách thương mại của các nước lớn, biến động giá cả thế giới và xung đột địa chính trị. Mục tiêu tăng trưởng cả năm 2025 đạt từ 8% trở lên theo Nghị quyết 25/NQ-CP vẫn có khả năng đạt được, nếu tiếp tục duy trì đà tăng hiện tại trong nửa cuối năm.
6 tháng cuối năm 2025, tình hình thế giới dự báo không còn kỳ vọng phục hồi mạnh mẽ như sau Covid-19. OECD và IMF đều cảnh báo các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc, EU đang bước vào giai đoạn tăng trưởng chậm, chu kỳ thắt chặt kéo dài. Các dòng vốn FDI có xu hướng dịch chuyển theo địa chính trị, khiến các nền kinh tế mới nổi phải cạnh tranh quyết liệt hơn để thu hút đầu tư chất lượng cao. Tự động hóa, AI, chuỗi cung ứng kỹ thuật số làm giảm lợi thế lao động giá rẻ; chuyển dịch thương mại dần sang hàng hóa số, dịch vụ số. Diễn biến mới cho thấy Mỹ áp thuế cao đối với hàng Trung Quốc và có xu hướng siết các quốc gia bị cho là "trung chuyển hàng". Căng thẳng ở Trung Đông, Ukraina - Nga làm tăng nguy cơ gián đoạn vận tải, tăng giá năng lượng, ảnh hưởng tới sản xuất toàn cầu.
Ở trong nước, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định xã hội trong bối cảnh biến động của địa chính trị và kinh tế thế giới diễn ra phức tạp, nhiều khó khăn thách thức. Để hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch năm 2025, trong thời gian tới ngành Công Thương sẽ tập trung triển khai các nhiệm vụ như: Tiếp tục tập trung triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 01, 02 và 25 của Chính phủ.
Đồng thời, triển khai đồng bộ, hiệu quả các định hướng chiến lược đã được Bộ Chính trị nêu trong “bộ tứ chiến lược”, bao gồm: Nghị quyết 57-NQ/TW năm 2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59-NQ-TW năm 2025 về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết 66-NQ/TW năm 2025 đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới[1]; Nghị quyết 68-NQ/TW năm 2025 về phát triển kinh tế tư nhân. Đồng thời, trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Chính phủ để thực hiện các Nghị quyết nêu trên.
Cùng đó, ưu tiên tập trung thực hiện nhiệm vụ chủ trì, điều phối đàm phán với Hoa Kỳ về thỏa thuận thương mại hướng tới quan hệ thương mại bền vững, xử lý vấn đề về thuế đối ứng và các vấn đề khác do phía Hoa Kỳ nêu ra.
Một số nhiệm vụ cụ thể: về sản xuất, triển khai hiệu quả Điều chỉnh Quy hoạch điện 8 và các quy hoạch thuộc lĩnh vực năng lượng và khoáng sản; tập trung tháo gỡ khó khăn, phấn đấu sớm đưa vào vận hành các công trình nguồn và lưới điện quan trọng trong năm 2025 để huy động tối đa các nguồn lực bảo đảm cung ứng đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt (như: Đường dây 500/220kV Nho Quan - Phủ Lý - Thường Tín, đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, đường dây 220kV Đô Lương -Nam Cấm; Nâng công suất các TBA 500kV Lai Châu, TBA 500kV Di Linh, TBA 500kV Thạnh Mỹ, Kon Tum, TBA 500kV Pleiku 2; Nhà máy nhiệt điện Quảng Trạch I (2x600MW); Nhà máy thủy điện Hòa Bình mở rộng (2x240 MW).
Tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Khẩn trương triển khai Luật Hóa chất, Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả sau khi được Quốc hội thông qua; Đẩy nhanh xây dựng dự thảo Luật phát triển công nghiệp trọng điểm, Luật Thương mại điện tử để tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thuận lợi thúc đẩy đầu tư, kinh doanh, tạo năng lực sản xuất mới.
Tập trung tháo gỡ vướng mắc đối với các dự án trong các lĩnh vực công nghiệp, năng lượng, đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ ngành năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió ngoài khơi), nội địa hoá ngành công nghiệp đường sắt phục vụ đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam và các dự án đường sắt quốc gia nhằm sớm đưa những nguồn lực này vào khai thác phục vụ phát triển kinh tế.
Tiếp tục triển khai hiệu quả Công điện số 1822/CĐ-BCT ngày 15 tháng 3 năm 2025 của Bộ Công Thương về việc đảm bảo vận hành an toàn, ổn định các nhà máy điện trong thời gian tới; Công điện số 3848/CĐ- BCT ngày 29/8/2025 về việc tập trung ứng phó nguy cơ mưa lớn, sạt lở đất, lũ quét và chủ động phòng chống thiên tai trong thời gian tới; Công điện số 4010/CĐ- BCT ngày 03/6/2025 về việc đảm bảo cung ứng điện trong các tháng cao điểm năm 2025 và thời gian tới.
Về bảo đảm nguồn cung hàng hóa thiết yếu, phát triển thị trường trong nước, quán triệt, triển khai thực hiện các nhiệm vụ liên quan theo chỉ đạo của Chính phủ tại Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 10/3/2025 về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để chủ động thích ứng linh hoạt, kịp thời, phù hợp, hiệu quả với tình hình thế giới, khu vực nhằm đạt được các mục tiêu tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế trong năm 2025 và các năm tiếp theo; Công điện 47/CĐ-TTg ngày 22/4/2025 của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2025; Công điện số 65/CĐ-TTg ngày 15/5/2025 về mở đợt cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 17/5/2025 về tăng cường công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong tình hình mới của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 1398/QĐ-BCT ngày 20/5/2025 về Kế hoạch giám sát, kiểm tra, xử lý buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả.
Tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành địa phương theo dõi sát diễn biến tình hình thị trường, bảo đảm đủ nguồn cung các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu người dân, nhất là trong các dịp cao điểm lễ, Tết, không để xảy ra tình trang thiếu hàng, sốt giá. Phối hợp với các Bộ ngành trong việc tham mưu điều hành giá các mặt hàng do nhà nước quản lý giá, trong đó có mặt hàng xăng dầu nhằm bảo đảm cung ứng xăng dầu trên thị trường, góp phần kiểm soát lạm phát chung theo mục tiêu của Chính phủ.
Kiểm tra, kiểm soát thị trường có trọng tâm, nhất là các lĩnh vực, mặt hàng thiết yếu tác động lớn đến kinh tế - xã hội, sản xuất trong nước và quyền lợi người tiêu dùng; đấu tranh, xử lý nghiêm các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, đầu cơ, thao túng, tăng giá bất hợp lý, nhất là các vi phạm trong hoạt động TMĐT (Đề án 319 của Thủ tướng Chính phủ trong phòng, chống hàng giả trên môi trường TMĐT), Kế hoạch số 01/KH-TTTN ngày 17/5/2025 của Cục TTTN cao điểm giám sát, kiểm tra, xử lý các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả và xâm phạm quyền SHTT) và xuất xứ hàng hóa qua đó tiếp tục rà soát, phát hiện những bất cập trong cơ chế chính sách để kiến nghị với Chính phủ, các Bộ, ngành xem xét, sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.
Tái cơ cấu thị trường trong nước, tiếp tục triển khai các chương trình, Đề án, Chiến lược về phát triển thị trường trong nước như: Chiến lược phát triển Chiến lược phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"; Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2021-2025; Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới năm 2023; Chương trình phát triển hạ tầng thương mại biên giới giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2035; Đổi mới phương thức kinh doanh tiêu thụ nông sản giai đoạn 2021 - 2025 định hướng đến năm 2030; Chương trình mỗi xã một sản phẩm OCOP… phối hợp chặt chẽ với các địa phương xây dựng, triển khai các hội nghị kết nối cung cầu, tiêu thụ sản phẩm gắn với địa phương, thúc đẩy tiêu thụ trong nước, đặc biệt là nông sản mang tính thời vụ cao.
Thông qua thực tiễn hoạt động tiếp tục đẩy nhanh việc rà soát, sửa đổi, xây dựng và hoàn thiện một số văn bản quy phạm pháp luật về phát triển thị trường trong nước bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn, phục vụ hiệu quả cho công tác điều hành kinh tế vĩ mô và hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa của người dân và doanh nghiệp; điều chỉnh cơ chế chính sách kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế góp phần bình ổn thị trường, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư kinh doanh.
Phối hợp với Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với lực lượng quản lý thị trường theo quy định của pháp luật, triển khai các hoạt động rà soát, quản lý địa bàn, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, ký cam kết đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, nhất là đối với các đối tượng kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử.
Phối hợp với các đơn vị truyền thông trong và ngoài Bộ chú trọng cung cấp thông tin đầy đủ đến người dân về tình hình nguồn cung hàng hóa… để tạo tâm lý ổn định cho người tiêu dùng, xử lý kịp thời các thông tin sai lệch gây tâm lý bất ổn cho người tiêu dùng; kịp thời đưa tin về hoạt động kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính của lực lượng quản lý thị trường, các vụ việc điển hình nhằm giáo dục phòng ngừa chung và thông tin cảnh báo người tiêu dùng trong mua bán và sử dụng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, tự giác chấp hành các chủ trương, chính sách của nhà nước, không tham gia hoặc tiếp tay cho các hành vi vi phạm, góp phần hạn chế sai phạm.
Đẩy mạnh hoạt động trao đổi thông tin với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, xử lý hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nhất là trên môi trường thươngmại điện tử.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, chia sẻ dữ liệu nhằm quản lý, phòng ngừa và xử lý sớm các vi phạm của doanh nghiệp, hộ kinh doanh theo tinh thần chỉ đạo tại Nghị quyết số 57 và Nghị quyết số 68 năm 2025 của Bộ Chính trị.
Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế, tiếp tục tăng cường hợp tác với các cơ quan, tổ chức, nhãn hàng lớn trong và ngoài nước nhằm nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho công chức thực thi.
Về xuất nhập khẩu hàng hóa, tiếp tục chú trọng công tác thông tin thị trường nhằm kịp thời thông tin với các Hiệp hội ngành hàng về những diễn biến của thị trường xuất khẩu để doanh nghiệp kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất phù hợp, định hướng tìm kiếm đơn hàng từ các thị trường; trường thường xuyên cập nhật thông tin về tình hình thị trường nước ngoài; các quy định, tiêu chuẩn, điều kiện của thị trường nước ngoài có thể tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam và khuyến nghị đối với các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Thường xuyên theo dõi chặt chẽ tình hình diễn biến về giá cước và biến động của thị trường vận tải kho vận trên thế giới và trong nước để có khuyến nghị kịp thời với cộng đồng doanh nghiệp.
Thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính, đẩy mạnh thực hiện thông qua dịch vụ công trực tuyến giúp tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Chủ động trong xây dựng các giải pháp, chính sách kịp thời, các đơn vị thuộc Bộ phối hợp để nghiên cứu, xây dựng kịch bản dự báo, phân tích, đề xuất giải pháp phản ứng chính sách kịp thời với khả năng xảy ra chiến tranh thương mại trên thế giới.
Tiếp tục triển khai các giải pháp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, hướng tới thúc đẩy xuất khẩu sang đa dạng các thị trường mới, song song với các thị trường trọng điểm.
Khai thác hiệu quả các FTA, bên cạnh việc đẩy nhanh tiến độ đàm phán các FTA mới và các FTA nâng cấp; đẩy nhanh tiến độ nội luật hóa các cam kết, tiếp tục triển khai các hoạt động đào tạo tập huấn các cam kết trong đó trọng tâm là đào tạo về quy tắc xuất xứ để doanh nghiệp nắm bắt và tận dụng.
Thường xuyên trao đổi, cảnh báo các tổ chức cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) về việc lưu ý tới một số mặt hàng có nguy cơ cao về gian lận xuất xứ hàng hóa; chủ động tổ chức các đoàn kiểm tra, xác minh khi có nghi vấn về gian lận xuất xứ.
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại nhằm đa dạng hóa thị trường xuất khẩu cho hàng hóa Việt Nam; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại theo hướng chuyên nghiệp và thích ứng với bối cảnh thị trường. Tập trung hỗ trợ ngành hàng, địa phương, doanh nghiệp xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu, đồng thời nâng cao năng lực tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đẩy mạnh triển khai các giải pháp kết nối cung cầu, gắn kết giữa sản xuất với phân phối và tiêu dùng, thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa sản xuất trong nước, sản phẩm địa phương; kích cầu tiêu dùng trên từng địa bàn, từng mặt hàng và phạm vi cả nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”, chương trình OCOP, các chương trình khuyến mại toàn quốc, đưa hàng hóa đến vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Tại buổi họp báo, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân, người phát ngôn của Bộ Công Thương và đại diện các đơn vị thuộc Bộ đã trả lời các câu hỏi của phóng viên báo chí liên quan đến thương mại điện tử, xuất nhập khẩu, công nghiệp, năng lượng...
Nhân dịp này, thay mặt Đảng ủy, lãnh đạo Bộ Công Thương, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân gửi lời cảm ơn và chúc mừng đến các nhà báo, phóng viên, cộng tác viên, cán bộ nhân viên công tác tại cơ quan báo, tạp chí, ngành Công Thương và các phóng viên báo, đài đã luôn đồng hành cùng ngành Công Thương trong thời gian qua, góp phần giúp ngành Công Thương, Bộ Công Thương hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ được giao. Thứ trưởng mong muốn thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục nhận được sự đồng hành của các cơ quan truyền thông báo chí nhằm hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao.
Nguồn tin: moit.gov.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn