Vượt lên thách thức, chung sức chung lòng đưa con tàu kinh tế "vượt bão" và duy trì đà tăng trưởng

Chủ nhật - 31/12/2023 02:58
Trước thềm Xuân mới Giáp Thìn, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trả lời phỏng vấn báo chí về những kết quả năm 2023 và nhiệm vụ cụ thể trong năm 2024 của ngành Công Thương.

Năm 2023 khép lại với những "cơn gió ngược", những diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường và chưa từng có tiền lệ từ kinh tế thế giới đã tác động sâu sắc, nhiều mặt đến kinh tế nước ta. Nhưng với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, Quốc hội; điều hành sâu sát, chủ động, linh hoạt của Chính phủ, sự nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp, ngành Công Thương đã cùng góp sức tích cực, đưa con tàu kinh tế Việt Nam từng bước vượt qua “hải trình” gian nan để cập bến, mặc dù kết quả ở một số mặt chưa được như kỳ vọng.

I. DỰ BÁO ĐÚNG TỪ SỚM TỪ XA, ỨNG PHÓ HIỆU QUẢ VỚI NHỮNG KHÓ KHĂN CHƯA TỪNG CÓ TIỀN LỆ

Kính thưa Bộ trưởng, năm 2023 có thể nói là một năm với những khó khăn chưa từng có trong tiền lệ đối với kinh tế toàn cầu và cả đối với Việt Nam cũng như ngành Công Thương. Những khó khăn ấy đã tác động tới lĩnh vực công thương như thế nào và ngành Công Thương đã nhìn nhận, ứng phó ra sao?

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Chúng ta đã bước qua một năm bản lề trong việc thực hiện các Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 5 năm 2021 - 2025 với rất nhiều khó khăn, thách thức.
Năm 2023, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, kinh tế toàn cầu phục hồi chậm hơn dự báo; nhiều quốc gia, trong đó có các đối tác thương mại lớn của nước ta tăng trưởng bị suy giảm; lạm phát tuy đã hạ nhiệt nhưng vẫn neo ở mức cao dẫn đến nhiều nền kinh tế lớn duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, tổng cầu giảm sút, tác động trực tiếp tới các quốc gia có độ mở kinh tế lớn, trong đó có Việt Nam... Ở trong nước, nền kinh tế dần lấy lại đà tăng trưởng, nhất là ngành công nghiệp, thích ứng hơn với tình hình mới của thế giới nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, nhất là “tác động kép” từ các yếu tố bất lợi ở bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài từ nhiều năm trước. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cả đất nước đã nỗ lực, kiên cường vượt qua khó khăn trong năm 2023. Đặt trong tương quan so sánh, nếu nhìn mức tăng trưởng của kinh tế thế giới là 2,9%; EU là 0,8%..., hay trong khu vực ASEAN chỉ có Philipines tăng cao hơn Việt Nam thì thấy có thể đánh giá mức tăng trưởng kinh tế năm 2023 của Việt Nam là rất đáng ghi nhận.
Với ngành Công Thương, những khó khăn tác động trực tiếp phải kể đến việc xuất khẩu và sản xuất công nghiệp bị suy giảm mạnh những tháng đầu năm (trong hai tháng đầu của năm 2023, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 6,9%, điều chưa từng xảy ra trong nhiều năm qua; mức độ liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành và liên ngành còn hạn chế; tăng trưởng thương mại nội địa tuy đạt cao nhưng chưa bằng mức tăng trưởng các năm trước khi xảy ra dịch Covid -19; tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, găm hàng chờ tăng giá trên thị trường nội địa, vi phạm cạnh tranh… còn diễn biến phức tạp.
Bên cạnh đó, công tác theo dõi, đánh giá và triển khai thực thi các cam kết hội nhập đã có sự chủ động, đổi mới phương thức thực hiện song vẫn còn những hạn chế, năng lực tham gia hội nhập của các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa cao.
Những hạn chế này có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Song, bám sát các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Quốc hội và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, năm 2023, ngành Công Thương đã sớm nhận diện những khó khăn, thách thức; chủ động, sáng tạo, tập trung xây dựng, triển khai quyết liệt, đồng bộ, toàn diện các giải pháp, nhiệm vụ được giao và đạt những kết quả tích cực, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế đất nước.

Trong bối cảnh nhiều khó khăn như vậy, xin Bộ trưởng khái quát một số kết quả nổi bật của ngành Công Thương, góp phần trụ cột ổn định kinh tế vĩ mô, giúp đất nước vững vàng vượt qua thách thức?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Trong bối cảnh với nhiều khó khăn, dưới sự chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cùng với nỗ lực và quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, nhân dân cả nước, cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế nước ta đã đạt những kết quả đáng ghi nhận: Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy, các cân đối vĩ mô được bảo đảm… Đóng góp vào các thành tích chung đó, ngành Công Thương, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đã tích cực, chủ động phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành Trung ương và các địa phương triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu hàng hóa, kích cầu tiêu dùng; tăng cường công tác hội nhập kinh tế quốc tế, hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp khai thác có hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do mà nước ta là thành viên để đa dạng hoá thị trường, duy trì tốt các chuỗi cung ứng, đẩy mạnh xuất khẩu; qua đó, đã góp phần thúc đẩy các chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp, thương mại, XNK những tháng cuối năm có chuyển biến rõ nét, đóng góp quan trọng trong việc đưa tăng trưởng kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng cao nhất.
Một số kết quả nổi bật của ngành Công Thương năm 2023 có thế kế đến là: Thương mại trong nước duy trì mức tăng trưởng khá cao, vượt mục tiêu đề ra và là trụ đỡ cho nền kinh tế trong bối cảnh sản xuất công nghiệp và xuất khẩu gặp nhiều khó khăn. Thương mại điện tử tiếp tục phát triển mạnh, giữ vững vị trí trong nhóm các nước dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng, trở thành kênh phân phối quan trọng, góp phần phát triển chuỗi cung ứng và lưu thông hàng hóa, tạo động lực phát triển kinh tế. Sản xuất công nghiệp và XNK những tháng cuối năm phục hồi tích cực; đặc biệt, cán cân thương mại năm thứ 8 liên tiếp đạt mức xuất siêu kỷ lục (gần 27 tỷ USD), gấp gần 3 lần so với năm trước, góp phần nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô. Ngành than và dầu khí đều đạt và vượt chỉ tiêu sản xuất, tiêu thụ so với cùng kỳ năm trước vượt so với kế hoạch năm. Bên cạnh đó, các nhiệm vụ khác của Bộ cũng đã hoàn thành hiệu quả, đúng mục tiêu và kế hoạch đề ra... đã tạo thuận lợi và nền tảng để ngành vượt khó, tăng trưởng trong bối cảnh thị trường quá khó khăn.

II. XUẤT NHẬP KHẨU VÀ CÔNG NGHIỆP 2023 - NHỮNG CÚ LỘI NGƯỢC DÒNG NGOẠN MỤC 
Xuất nhập khẩu năm 2023 tuy chưa đạt được những con số cao và đồng đều như năm 2022 nhưng giới chuyên gia vẫn ghi nhận đó là một nỗ lực lớn, thậm chí trong đó còn có kỳ tích lần đầu đạt được như xuất siêu kỷ lục cao nhất trong nhiều năm qua. Xin Bộ trưởng có thể nói rõ hơn về vấn đề này?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Như chúng ta đã biết, tình hình chính trị, kinh tế thế giới năm 2023 biến động phức tạp, nhanh chóng, khó lường; thương mại toàn cầu suy giảm, chỉ tăng 0,8%, giảm một nửa so với mức dự báo 1,7% của WTO dịp đầu năm do phải đối mặt với nhiều sức ép từ những biến động ngày càng phức tạp của căng thẳng địa chính trị và địa kinh tế trên thế giới; giá nguyên liệu đầu vào, năng lượng và logistics toàn cầu tăng cao đã tác động đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp; tình hình lạm phát ở nhiều nước trên thế giới tuy đã giảm nhưng vẫn “neo” ở mức cao, dẫn tới xu hướng tiết kiệm chi tiêu, mua sắm tại một số thị trường tiêu thụ lớn như Mỹ, EU khiến nhu cầu nhập khẩu giảm; việc Trung Quốc mở cửa trở lại cũng tạo nhiều áp lực cạnh tranh đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó, chính sách bảo hộ thương mại, cạnh tranh về giá giữa các nước xuất khẩu có cùng mặt hàng gia tăng; các nước ngày càng dựng lên nhiều rào cản kỹ thuật, tạo sức ép mới cho hàng xuất khẩu của ta, tác động rất bất lợi đến hoạt động sản xuất công nghiệp và thương mại trong nước, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Ở đây, tôi muốn phân tích thêm, những khó khăn này không phải chỉ có từ đầu năm 2023 mà thực chất đã tiềm ẩn từ các tháng cuối năm 2022. Tuy nhiên, khi chúng ta khép lại năm 2022 với kim ngạch xuất khẩu ước đạt trên 371 tỷ USD, tăng 10,6% so với năm trước thì có một số đánh giá khá lạc quan về triển vọng của năm 2023, nhưng tập thể Ban cán sự đảng, Lãnh đạo Bộ Công Thương đã sớm phát hiện ra vấn đề, chủ động chỉ đạo cho các đơn vị chức năng, đặc biệt là hệ thống thương vụ sớm có những nghiên cứu, đánh giá để nắm bắt các biến động tại các thị trường trọng điểm. Từ đó, Bộ Công Thương đã sớm có sự nhận diện, dự báo đúng và chính xác những khó khăn của kinh tế thế giới ngay từ những ngày đầu 2023 để góp phần tham mưu cho Chính phủ kịp thời sớm xây dựng các kịch bản ứng phó một cách chủ động, linh hoạt.
Chúng ta còn nhớ, tại "Hội nghị thúc đẩy sản xuất tiêu dùng trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu năm 2023", một trong những chỉ đạo quan trọng của Thủ tướng Phạm Minh Chính là yêu cầu ngành Công Thương quán triệt tinh thần "trong nguy có cơ" để thúc đẩy, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Quán triệt nghiêm túc chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, năm 2023, công tác phát triển thị trường được ngành Công Thương triển khai theo cả bề rộng và chiều sâu. Đơn cử, trong lĩnh vực xúc tiến thương mại, cùng với những sự kiện hội chợ, kết nối giao thương được phủ sóng trong nước và tại các thị trường trọng điểm ở nước ngoài như Trung Quốc, Thái Lan, châu Âu…  công tác giao ban Thương vụ đã có nhiều đổi mới mang tính đột phá; bám sát các chủ trương lớn nhưng cũng hết sức cụ thể. Nhìn lại có thể thấy, 12 buổi giao ban Thương vụ hàng tháng là 12 chủ đề khác nhau, bao trùm ở nhiều lĩnh vực, ngành hàng, và thị trường. Có buổi giao ban là những định hướng cho doanh nghiệp, hiệp hội về những yêu cầu cụ thể của thị trường xuất khẩu; có buổi giao ban lại trực tiếp tháo gỡ khó khăn ngay thời điểm đó, như với thị trường Trung Quốc… Bộ Công Thương cũng đã thường xuyên cập nhật diễn biến hoạt động xuất khẩu ở các cửa khẩu biên giới để có những giải pháp, đề xuất tháo gỡ vướng mắc kịp thời cho dòng chảy hàng hóa được thông suốt.
Nhờ những giải pháp kịp thời và tích cực tranh thủ cơ hội từ sự phục hồi của các thị trường lớn, truyền thống, hoạt động xuất khẩu của nước ta được duy trì và đẩy mạnh. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm ước đạt 683 tỷ USD, trong đó xuất khẩu ước đạt 355,5 tỷ USD, nhập khẩu ước đạt 327,5 tỷ USD. Thẳng thắn nhìn nhận, con số tăng trưởng này chưa được như kỳ vọng, cũng chưa chạm tới mục tiêu đề ra cho năm 2023, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục tăng trưởng chậm, tổng cầu thế giới sụt giảm mà hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đã vượt qua khó khăn, thu hẹp đáng kể mức suy giảm ở thời điểm cuối năm so với đầu năm đã cho thấy sự nỗ lực của Bộ Công Thương về điều hành xuất khẩu.

Tôi có thể lấy ví dụ về việc chọn thị trường Trung Quốc là điểm đột phá. Ngay từ đầu năm 2023, Bộ Công Thương đã chỉ đạo để các cơ quan chức năng, doanh nghiệp cần chuẩn bị kỹ lưỡng, nắm bắt tốt cơ hội khi Trung Quốc chấm dứt chính sách Zero-Covid và mở cửa nền kinh tế. Bên cạnh đó, các Cục, Vụ chức năng của Bộ Công Thương cũng theo sát, đảm bảo tiến độ thông quan hàng hóa nông sản tại các cửa khẩu khu vực phía Bắc sau Tết Nguyên đán; phối với các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chính ngạch. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đàm phán với Trung Quốc mở cửa thêm thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng rau quả khác như bưởi da xanh, dừa tươi, bơ, dứa, vú sữa, chanh, dưa lưới; nâng cao hiệu quả và điều tiết tốt tốc độ thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu tại khu vực cửa khẩu biên giới Việt Nam - Trung Quốc, đặc biệt là các mặt hàng nông sản, thủy sản; chuyển nhanh, chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch. Kết quả là chúng ta đã khai thông hiệu quả hoạt động xuất khẩu sang Trung Quốc, hàng hóa cơ bản không bị ách tắc, kể cả lúc cao điểm thời vụ, góp phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc - đối tác thương mại lớn nhất của nước ta.
Ngoài thị trường Trung Quốc, chúng ta đã thực hiện tốt đa dạng hóa thị trường trong bối cảnh xuất khẩu sang các thị trường lớn đều sụt giảm; kim ngạch xuất khẩu sang các nước châu Phi, Đông Âu, Bắc Âu, Tây Á tăng; mức suy giảm xuất khẩu tại một số thị trường chủ lực tiếp tục được thu hẹp đáng kể.
Nhìn tổng thể, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của chúng ta năm 2023 tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Theo tôi, một trong những dấu ấn rất đáng ghi nhận trong bức tranh xuất nhập khẩu năm nay chính là cán cân thương mại tiếp tục xuất siêu năm thứ 8 liên tiếp với mức thặng ước đạt 28 tỷ USD, tăng gần gấp 3 lần năm 2022, góp phần tích cực cho cán cân thanh toán, giúp nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế.
Con số này cần được nhìn nhận ở khía cạnh tích cực nếu so sánh với bối cảnh chung của toàn cầu. Cụ thể, ở nước ta, thời điểm cuối quý I, xuất khẩu ghi nhận giảm 11,8% so với cùng kỳ năm trước. Từ cuối quý II, xuất khẩu có những tín hiệu phục hồi, tháng sau cao hơn tháng trước (tháng tăng 4,3% so với tháng 4; tháng 6 tăng 4,5% so với tháng 5; tháng 7 tăng 0,8%, tháng 9 tăng 9,0%...). Đến cuối quý III, mức giảm xuất khẩu thu hẹp còn 8,5% so với cùng kỳ. Dự kiến hết năm 2023, xuất khẩu ước đạt  355 tỷ USD, mức giảm thu hẹp còn 4,4% so với năm 2022. Nếu so với sự sụt giảm xuất khẩu của các nước trong khu vực, xuất khẩu của nước ta đã có sự phục hồi tích cực hơn.

Là lĩnh vực gặp rất nhiều khó khăn trong năm qua nhưng công nghiệp vẫn là một trụ cột của nền kinh tế. Xin Bộ trưởng cho biết bức tranh công nghiệp 2023 có những điểm sáng nào đáng ghi nhận?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Năm 2023, mặc dù gặp không ít khó khăn, song sản xuất công nghiệp của Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng so với năm trước, quy mô sản xuất công nghiệp tiếp tục được mở rộng. Một trong những điểm sáng của sản xuất công nghiệp là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, đây cũng là ngành quyết định chủ yếu đến tốc độ tăng trưởng toàn ngành công nghiệp, tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất cho khu vực công nghiệp và là động lực chính trong tăng trưởng kinh tế của đất nước trong nhiều năm qua, góp phần cùng với cả nước thực hiện thắng lợi phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể, lĩnh vực chế biến, chế tạo trong những tháng cuối năm tăng đã kéo chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp cả năm 2023 tăng so với cùng kỳ năm trước (IIP năm 2023 ước tăng 2,3% so với năm 2022; trong đó ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước tăng 3,1%, cao hơn mức tăng chung của toàn ngành). Giá trị gia tăng ngành công nghiệp ước cả năm tăng 2,98%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo ước tăng 3,48%, đóng góp tích cực cho sự phục hồi của nền kinh tế.
Chỉ số sản xuất của một số ngành công nghiệp trọng điểm cấp 2 năm 2023 ước tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic ước tăng 9,7%; khai thác quặng kim loại tăng 10,2%; sản xuất thuốc lá ước tăng 10,2%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất ước tăng 8,5%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 6,7%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế ước tăng 6,7%; sản xuất chế biến thực phẩm ước tăng 6,5%; dệt ước tăng 6,1%...
Nhiều địa phương đã nỗ lực vượt qua khó khăn, từng bước phục hồi sản xuất, duy trì được thành tích công nghiệp khá với chỉ số IIP tăng ở hầu hết các địa phương trên cả nước (tăng ở 50 địa phương và giảm ở 13 địa phương). Các địa phương giữ được tăng trưởng khá là: Trà Vinh, Bắc Giang, Phú Thọ, Nam Định, Khánh Hòa, Kiên Giang, Hà Nam, Hải Phòng, Ninh Thuận, Đắk Lắk, Quảng Ninh, Bắc Kạn, Hậu Giang, Phú Yên, Thái Bình,...

Xuất nhập khẩu và công nghiệp 2023 - những cú lội ngược dòng ngoạn mục

Nhìn lại năm 2023, chúng ta đã từng bước thực hiện mục tiêu chiến lược của Đảng, Chính phủ về việc tạo dựng nền móng để tạo đà cho công nghiệp tiếp tục phát triển bài bản, vững chắc. Có thể kể đến các Quy hoạch về phát triển điện lực quốc gia; Quy hoạch về hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu; Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia; Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến các loại khoáng sản đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đây là những khung khổ rất quan trọng để Việt Nam hướng tới một nền công nghiệp hiện đại, bền vững phục vụ sự phát triển của đất nước và cũng phù hợp với xu hướng kinh tế xanh, công nghiệp xanh của quốc tế.
Một điểm sáng đáng ghi nhận nữa là Bộ Công Thương đã phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng nhiều địa phương trong cả nước triển khai nhiều giải pháp kết nối khối doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước để phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo và công nghiệp hỗ trợ. Đồng thời, hàng loạt các hoạt động khuyến công cũng được Bộ triển khai rộng khắp ở các tỉnh thành, địa phương trên cả nước. Không chỉ có các tập đoàn, doanh nghiệp lớn, Bộ Công Thương còn chú trọng, quan tâm đến cả những doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ để hỗ trợ họ cùng phát triển, bắt kịp xu hướng của Cuộc cách mạng mạng công nghiệp 4.0.
Những thành quả này cũng đã cho thấy sự đúng đắn trong phương hướng, mục tiêu và sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ trong việc thúc đẩy toàn diện quá trình công nghiệp hóa đất nước, phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên theo hướng hiện đại; đồng thời cũng không bỏ quên những doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Với những kết quả tích cực trên, có thể thấy ngành công nghiệp vẫn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao, tương đối toàn diện và vẫn tiếp tục là động lực dẫn dắt tăng trưởng của toàn nền kinh tế.

III. THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC - TRỤ ĐỠ QUAN TRỌNG; THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ DẪN DẮT KINH TẾ SỐ
Thị trường trong nước năm 2023 tiếp tục phát huy tốt vai trò là một trong những động lực, trụ đỡ quan trọng của nền kinh tế, góp phần đảm bảo các mục tiêu tăng trưởng vĩ mô. Xin Bộ trưởng cho biết về những giải pháp ngành Công Thương đã thực hiện để thúc đẩy và duy trì đà tăng trưởng của thương mại nội địa?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Như trên tôi đã đề cập, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã định hướng 3 trụ cột tăng trưởng là đầu tư, xuất khẩu và tiêu dùng. Trong đó, thương mại là một trong những trụ cột quan trọng đảm bảo các mục tiêu tăng trưởng vĩ mô, trong đó thị trường và tiêu dùng nội địa đóng một vai trò rất quan trọng.
Quán triệt tinh thần này, bên cạnh việc đẩy mạnh thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ về triển khai các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, ngay từ đầu năm 2023, ngành Công Thương đã đưa ra những định hướng hoạt động để có các giải pháp ứng phó kịp thời trước những biến động từ thị trường quốc tế có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường nội địa.
Thực tiễn cho thấy một điểm đáng mừng là, trong những năm gần đây, nhận thức về thị trường trong nước của các doanh nghiệp và các nhà quản lý đã thay đổi cơ bản. Theo đó, thị trường nội địa không còn chỉ như một giải pháp thay thế khi xuất khẩu gặp khó khăn. Trái lại, thương mại trong nước đã góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ và gắn liền với phát triển thương hiệu hàng Việt Nam. Đồng thời, cùng với xuất khẩu và công nghiệp chế biến, chế tạo, thương mại nội địa đã tạo thành "chân kiềng" có tính bổ trợ vững chắc, bảo đảm hoàn thành mục tiêu tăng trưởng của ngành Công Thương cũng như của cả nền kinh tế đất nước.
Tôi lấy ví dụ, tổng bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2023 ước tăng 9,6% so với năm 2022, vượt mục tiêu kế hoạch của ngành (mục tiêu tăng 8-9%). Kết quả này không chỉ góp phần quan trọng trong việc đảm bảo các mục tiêu tăng trưởng vĩ mô mà còn minh chứng cho những giải pháp về phát triển thị trường trong nước của ngành Công Thương đã đúng và trúng.

Thị trường trong nước năm 2023 tiếp tục phát huy tốt vai trò là một trong những động lực, trụ đỡ quan trọng của nền kinh tế, góp phần đảm bảo các mục tiêu tăng trưởng vĩ mô

Cùng với việc triển khai sâu rộng Cuộc vận động "Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam", nhiều giải pháp đã được ngành Công Thương triển khai để thúc đẩy tiêu dùng nội địa như: Các chương trình kích cầu tiêu dùng, tháng khuyến mại tập trung được tổ chức đồng loạt ở các địa phương; tăng cường kết nối cung cầu hàng hóa để đảm bảo giá cả được ổn định, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát của Chính phủ; củng cố liên kết giữa các nhà sản xuất trong nước với các hệ thống phân phối lớn trên toàn quốc. Điều đáng nói là hệ thống phân phối trong nước đã tập trung rất lớn cho tiêu thụ hàng Việt, đặc biệt là các mặt hàng nông sản, không chỉ góp phần kích thích sản xuất mà còn giúp mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa. Trên các kệ hàng siêu thị, cửa hàng tiện lợi, ở thành thị, nông thôn, vùng xa.. hàng Việt luôn chiếm tỷ trọng 85-90%.

Thương mại điện tử năm 2023 tiếp tục là mũi xung kích trên trận tuyến kinh tế của ngành Công Thương và đất nước? Xin Bộ trưởng cho biết những dấu ấn đáng ghi nhận năm qua của lĩnh vực này là gì, và nó đã có tác động tới phát triển kinh tế số ở Việt Nam như thế nào?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Để khai thác hiệu quả thị trường 100 triệu dân, trong năm 2023, ngành Công Thương không chỉ chú trọng đầu tư phát triển hạ tầng thương mại, hiện đại hóa hệ thống phân phối ở vùng sâu, vùng xa mà còn kết hợp chặt chẽ, hiệu quả, sáng tạo giữa thương mại truyền thống và hiện đại như livetream quảng bá sản phẩm, hỗ trợ nông dân, hợp tác xã tiêu thụ nông sản trên thương mại điện tử; tổ chức kích cầu mua sắm trên cả nước thông qua Ngày mua sắm trực tuyến…
Như tôi đã nêu ở trên, trong thành công của thương mại nội địa trong năm 2023 có sự “lên ngôi” của thương mại điện tử. Hoạt động thương mại điện tử (TMĐT) tiếp tục phát triển trở thành kênh phân phối quan trọng, góp phần phát triển chuỗi cung ứng và lưu thông trong và ngoài nước, hỗ trợ tiêu thụ hiệu quả lượng lớn nông sản, thực phẩm cho người nông dân và doanh nghiệp, đặc biệt khi vào vụ thu hoạch. Nhiều doanh nghiệp tăng trưởng đột phá nhờ ứng dụng thương mại điện tử, doanh thu bán lẻ hàng hóa xuyên biên giới tăng cao, trong đó có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ngành Công Thương đã tổ chức nhiều hoạt động về liên kết vùng phát triển thương mại điện tử, triển lãm các công nghệ, giải pháp chuyển đổi số, sản xuất thông minh, ứng dụng TMĐT, kích cầu tiêu dùng trong nước, thu hút người dân tham gia vào các hoạt động trải nghiệm TMĐT và công nghệ số, qua đó thúc đẩy phát triển TMĐT cấp vùng, giúp tăng cường nhận thức của người dân với TMĐT và thúc đẩy đầu tư, phát triển hạ tầng, giải pháp công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam.
Nhờ các giải pháp đồng bộ nêu trên, năm 2023 đã chứng kiến sự đột phá vượt bậc trong lĩnh vực TMĐT, quy mô thị trường TMĐT bán lẻ Việt Nam ước đạt 20,5 tỷ USD, chiếm 8% doanh thu hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của cả nước, đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 25%/năm. Chúng ta được xếp vào nhóm 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng TMĐT hàng đầu thế giới, tạo động lực phát triển kinh tế và dẫn dắt chuyển đổi số trong doanh nghiệp.

IV. TĂNG TỐC TRÊN "XA LỘ" HỘI NHẬP, KHÔNG BỊ ĐỘNG TRƯỚC NHỮNG "Ổ GÀ" BẢO HỘ
Như Bộ trưởng đã phân tích, năm 2023 cũng là năm có nhiều dấu ấn của hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, Bộ Công Thương đã đóng vai trò tích cực trong việc ký kết các FTA mới, là một trong những cơ quan tham mưu cho Đảng và Chính phủ ban hành các chính sách triển khai, thực thi các cam kết quốc tế mà Việt Nam  tham gia. Xin Bộ trưởng cho biết thêm một số đánh giá về lĩnh vực này?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Năm 2023 đánh dấu 10 năm ngành Công Thương thực hiện Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị khóa XI về hội nhập quốc tế chủ động, toàn diện, sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong thập kỷ qua, thực hiện chiến lược, chủ trương của Đảng, Nhà nước, Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương đã triển khai sâu rộng, bài bản, hiệu quả công tác hội nhập kinh tế quốc tế trên tất cả các kênh đối ngoại song phương, đa phương và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đặc biệt, trong năm nay, cùng với các hoạt động ngoại giao kinh tế của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, Bộ Công Thương cũng đã tích cực triển khai các hoạt động mở rộng thị trường và tăng cường quan hệ thương mại quốc tế, khẳng định sự đóng góp của ngành đối với hội nhập kinh tế và sự phát triển toàn diện của đất nước. Cụ thể, việc chủ trì kết thúc đàm phán với Israel và ký biên bản kết thúc đàm phán có điều kiện với Các Tiểu vương quốc Ả Rập (UAE), đã mở cánh cửa vào thị trường Trung Đông với quy mô GDP khoảng 2.000 tỷ USD. Đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã ký kết thành công 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) với hơn 60 đối tác, trong đó hầu hết là những nền kinh tế lớn, phủ rộng khắp các châu lục, chiếm gần 90% GDP toàn cầu, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước dẫn đầu khu vực về tham gia các khuôn khổ hợp tác kinh tế quốc tế, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại.
 Việc triển khai có hiệu quả các FTA đã ký kết cũng giúp mở rộng cánh cửa thị trường cho hàng hóa xuất khẩu, là cơ hội để Việt Nam kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Đơn cử như với Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), tỷ lệ sử dụng Giấy chứng nhận xuất xứ CPTPP (C/O CPTPP) của hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng tích cực và tăng đáng kể so với các năm trước (trong đó gạo tăng hơn 2503%; sắn và các sản phẩm từ sắn tăng gần 3649%; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác tăng hơn 134%; hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng xấp xỉ 67%...). Các con số trên là minh chứng rõ ràng cho hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến và triển khai thực thi các FTA mà nước ta là thành viên. Đồng thời cũng cho thấy doanh nghiệp Việt Nam bước đầu đã tận dụng tốt những lợi ích mà các FTA mang lại, vượt qua những khó khăn về chuỗi cung ứng và thách thức từ tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu trong thời gian qua. Thông qua cánh cửa hội nhập, doanh nghiệp không chỉ nhận được vốn đầu tư lớn, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý, mà còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới, đồng thời góp phần vào sự ổn định an sinh xã hội.

Đối với người tiêu dùng, sự tham gia trong các FTA mang lại cơ hội tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao, với giá cả cạnh tranh. Điều này không chỉ tăng cường trải nghiệm mua sắm của người tiêu dùng mà còn đóng góp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Ngoài ra, việc tham gia vào các FTA đã củng cố vị thế quốc tế của Việt Nam, tăng cường mối quan hệ với các đối tác quan trọng và đảm bảo một môi trường ổn định để hỗ trợ sự phát triển toàn diện của đất nước.
Nhìn chung, những thành tựu trên đây khẳng định sự chỉ đạo sáng suốt, đồng bộ, quyết liệt của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cùng với nỗ lực và quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, nhân dân cả nước, cộng đồng doanh nghiệp trong việc cùng thúc đẩy hội nhập kinh tế và phát triển bền vững.

Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu chứng kiến lễ ký kết Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Israel (VIFTA)

Thưa Bộ trưởng, như Bộ trưởng đã nhiều lần lưu ý tại một số Hội nghị, đó là để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn sắp tới, cần hết sức quan tâm tới công tác phòng vệ thương mại. Xin Bộ trưởng phân tích rõ hơn về vấn đề này?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Trước tình hình biến động nhanh chóng của kinh tế thế giới, ngành Công Thương đã chủ động đề xuất và thực thi những phương hướng, nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh hiện tại.
Cụ thể, toàn ngành chủ động nắm chắc biến động kinh tế thế giới và khu vực; tăng cường năng lực dự báo và phản ứng chính sách phù hợp, kịp thời để tham mưu, đề xuất với cấp có thẩm quyền các đối sách, giải pháp phù hợp để từ đó có các hướng đi linh hoạt, khả thi nhằm phản ứng nhanh chóng với chính sách mới của các đối tác (minh chứng rõ nét nhất là Bộ Công Thương đã chỉ đạo tăng cường đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động để phát huy tốt vai trò của hệ thống các Cơ quan Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài trong công tác nắm bắt, cung cấp kịp thời các thông tin về thị trường và các quy định, chính sách mới của các nước sở tại; cảnh báo sớm các “rào cản” mới của đối tác và các vụ kiện thương mại, giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp có phản ứng chính sách phù hợp, hiệu quả). Bên cạnh đó, Bộ cũng chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng thể chế; hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách để đảm bảo đồng bộ, tương thích với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tận dụng không gian chính sách để hỗ trợ các chủ thể Việt Nam và phát triển các ngành, lĩnh vực mới.
Một điểm quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác hội nhập kinh tế quốc tế là phải chủ động trong nhận diện và triển khai hiệu quả công tác phòng vệ thương mại. Nói một cách hình ảnh, chúng ta chuẩn bị tâm thế, nguồn lực để tăng tốc trên "xa lộ" hội nhập nhưng cũng phải tỉnh táo để không bị động, ứng phó kịp thời trước những "ổ gà" trên xa lộ đó.
Trên thực tế, công tác chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ trong năm 2023 đã được ngành Công Thương triển khai tích cực, hiệu quả. Hàng xuất khẩu của Việt Nam đã phải đối mặt với 12 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội để hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu xử lý có hiệu quả; kết quả đã ghi nhận nhiều vụ việc Việt Nam thành công trong việc chứng minh doanh nghiệp không bán phá giá hay Chính phủ không trợ cấp.
Đồng thời, Bộ Công Thương đã cập nhật theo dõi trên 170 mặt hàng, đưa ra danh sách cảnh báo sớm đối với 18 mặt hàng có nguy cơ bị điều tra áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Từ đó giúp các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp chủ động trong công tác ứng phó cũng như chủ động xây dựng chiến lược sản xuất, xuất khẩu để giảm thiểu tác động tiêu cực do biện pháp phòng vệ thương mại của nước ngoài gây ra.

V. KIẾN TẠO KHÔNG GIAN PHÁT TRIỂN MỚI ĐỂ HƯỚNG TỚI TỰ CHỦ, BẢO ĐẢM AN NINH NĂNG LƯỢNG QUỐC GIA 

Trong năm 2023, Bộ Công Thương đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 03 quy hoạch ngành Quốc gia quan trọng trong lĩnh vực năng lượng, xin Bộ trưởng phân tích ý nghĩa của các quy hoạch này như thế nào đối với mục tiêu xây dựng ngành năng lượng Việt Nam tự chủ, bền vững.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị về “Định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” được ban hành có ý nghĩa rất to lớn, đặc biệt là đúng thời điểm xây dựng chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn từ 2021-2030 và tầm nhìn đến 2050, thích ứng với tình hình mới của thế giới.
Thực hiện các chủ trương, chiến lược của Đảng về phát triển năng lượng, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã và đang thúc đẩy nhanh việc thiết lập, hoàn thiện khung chính sách nhằm đa dạng hóa các nguồn cung; ban hành một số chính sách khuyến khích phát triển các nguồn năng lượng mới, sạch, năng lượng tái tạo để nâng cao năng lực, hiệu quả, tính bền vững và thích ứng cho ngành năng lượng quốc gia; đồng thời đề ra nhiều giải pháp huy động nguồn lực lớn cho đầu tư phát triển hạ tầng năng lượng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phù hợp với xu hướng và cam kết hội nhập quốc tế.
Với vai trò, trách nhiệm là thành viên Chính phủ, thực hiện nhiệm vụ quản lý ngành, Bộ Công Thương đã tham mưu xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 03 quy hoạch ngành quốc gia trong lĩnh vực năng lượng, gồm Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia (Quy hoạch điện VIII); Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia và Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt quốc gia. Các quy hoạch này có tầm quan trọng đặc biệt vừa có tính kế thừa, vừa có nhiều điểm mới, khắc phục được những tồn tại ở thời kỳ trước, mở ra không gian phát triển mới cho ngành năng lượng Việt Nam theo hướng hiện đại, tự chủ, bền vững, công bằng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp với các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước và khả năng thực tế của đất nước cũng như xu thế phát triển của quốc tế.

Phát triển năng lượng tái tạo góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia

Các quy hoạch trên đều có chung mục tiêu hướng tới bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và là một trong những công cụ để cơ cấu lại nền kinh tế chuyển đổi và mô hình tăng trưởng, là tiền đề quan trọng thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việc triển khai thực hiện tốt các quy hoạch này sẽ góp phần bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; đồng thời, thể chế hóa thị trường hiện đại theo hướng nâng cao hiệu quả phân bổ và huy động nguồn lực, từ đó, thúc đẩy việc hình thành hệ sinh thái công nghiệp, các chuỗi cung ứng vật tư, nguyên liệu và cụm liên kết trong các ngành năng lượng, thực hiện thành công chuyển đổi năng lượng công bằng gắn với hiện đại hóa sản xuất, phù hợp với xu thế chuyển đổi xanh, giảm phát thải, phát triển khoa học công nghệ của thế giới; phù hợp với cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Được biết trong năm 2023, Bộ Công Thương đã chủ trì hàng chục cuộc họp năng lượng nói chung, trong đó có nhiều cuộc họp về các thúc đẩy các dự án điện lớn như điện khí, điện gió ngoài khơi, đường dây mạch 3 nhằm đảm bảo điện cho nền kinh tế- xã hội đất nước và an ninh năng lượng quốc gia. Xin Bộ trưởng có thể điểm lại một số kết quả của các dự án quan trọng cũng như định hướng thời gian tới?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Có thể nói, năm 2023, việc đảm bảo năng lượng trong nước, nhất là năng lượng điện gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, đặc biệt là những bất cập, hạn chế tồn tại từ nhiều năm trước và sự biến đổi khí hậu, ảnh hưởng của El Nino gây thời tiết nắng nóng bất thường, nhu cầu sử dụng điện của người dân tăng mạnh, trong khi mưa ít dẫn tới lưu lượng nước về hồ chứa thủy điện giảm mạnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của các Nhà máy thuỷ điện.
Trong bối cảnh đó, Bộ Công Thương đã chủ động triển khai thực hiện các nhiệm vụ giải pháp bảo đảm cung ứng điện an toàn, ổn định theo chức năng, thẩm quyền được phân công, cụ thể là:
Từ đầu năm đến hết năm 2023, Bộ Công Thương đã kịp thời ban hành Kế hoạch cung ứng điện và Biểu đồ cung cấp than, khí cho phát điện hằng năm; đồng thời đã có nhiều văn bản chỉ đạo các đơn vị triển khai các biện pháp cấp bách để đảm bảo cung ứng nhiên liệu than, khí cho phát điện và chỉ đạo công tác vận hành cung cấp điện; tổ chức nhiều cuộc họp với các Tập đoàn năng lượng (EVN, TKV, PVN) để chỉ đạo: (i) thực hiện nghiêm các kế hoạch về cung cấp điện cũng như cung cấp than cho phát điện theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Kế hoạch đã được Bộ Công Thương phê duyệt; (ii) Yêu cầu TKV và PVN phải nỗ lực hết sức để cung ứng đầy đủ nhiên liệu (than, khí đốt) phục vụ cho phát điện; (iii) Hướng dẫn và đôn đốc EVN khẩn trương đàm phán và huy động các nhà máy điện đã đủ điều kiện hoạt động (bao gồm cả nhà máy điện gió, điện mặt trời chuyển tiếp) để bổ sung cho hệ thống; (iv) Đôn đốc các đơn vị liên quan khẩn trương khắc phục những sự cố của các tổ máy để sẵn sàng huy động trở lại; đẩy nhanh tiến độ xây dựng, đưa vào vận hành các công trình nguồn và lưới điện truyền tải (như: nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2, Kho cảng khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) 1 triệu tấn/năm tại Thị Vải, các dự án điện khí Nhơn Trạch 3&4, dự án đường dây 500 kV mạch 3…) để sớm hoàn thành, đưa vào sử dụng, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia; (v) Đồng thời, đẩy mạnh chỉ đạo thực hiện có hiện quả các giải pháp tiết kiệm điện theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Đặc biệt, trong năm 2023, Bộ Công Thương đã tổ chức các cuộc họp tháo gỡ khó khăn cho các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi trong đó mời các chuyên gia kinh tế - tài chính- năng lượng đầu ngành của đất nước tham gia đóng góp ý kiến về cơ chế, chính sách. Đây là những căn cứ quan trọng để Bộ Công Thương báo cáo Chính phủ, trình cấp các thẩm quyền xem xét, ban hành trong thời gian sắp tới.
Về định hướng năm 2024 và các năm tiếp theo, với vai trò là cơ quan quản lý nghành, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục tập trung có nhiệm vụ trọng tâm như: Tham mưu, xây dựng trình các cấp có thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách có liên quan; Ban hành các chương trình, kế hoạch theo thẩm quyền và tăng cường chỉ đạo theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch trong ngành điện, than, dầu khí; chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc tạo điều kiện sớm đưa vào vận hành các công trình năng lượng điện, dầu khí.., đặc biệt là các công trình trọng điểm quốc gia, góp phần bảo đảm cung ứng đủ điện cho sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và sinh hoạt của Nhân dân trong mọi tình huống; đồng thời, đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của các đơn vị, cá nhân ngành điện, bảo đảm thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các quy định, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và của Bộ.

VI. XÁC ĐỊNH SIẾT CHẶT KỶ LUẬT, KỶ CƯƠNG HÀNH CHÍNH, ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ LÀ YẾU TỐ TIÊN QUYẾT, CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHỤC VỤ NGƯỜI DÂN VÀ DOANH NGHIỆP
Năm 2023, được Bộ Công Thương xác định là năm thực hiện nâng cao kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vụ đối với công chức, người lao động tại các cơ quan, đơn vị; đặc biệt đề cao trách nhiệm người đứng đầu tại tất cả các đơn vị của Bộ. Xin Bộ trưởng cho biết một số đánh giá về kết quả đạt được và những điều Bộ trưởng còn trăn trở?

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Năm 2023, Bộ Công Thương xác định kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vụ đối với công chức, người lao động tại các cơ quan, đơn vị là yếu tố quan trọng, tiên quyết để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Đây là chủ trương được Ban cán sự đảng, Lãnh đạo Bộ thống nhất chỉ đạo quyết liệt, sâu sát, thường xuyên. Việc thực hiện siết chặt kỷ luật, kỷ cương có kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, các đơn vị trong Bộ đã quán triệt kịp thời, sâu sắc và tổ chức triển khai nghiêm túc, quyết liệt các Nghị quyết, Kết luận, Chỉ thị của Đảng, Quốc hội và các Nghị quyết, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Bám sát thực tiễn, linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành, phối hợp, chặt chẽ trong tổ chức thực hiện; theo dõi nắm chắc tình hình, chủ động dự báo để kịp thời ứng phó với những biến động bất ngờ của tình hình trong và ngoài nước nhằm có các giải pháp điều hành phù hợp.
Đồng thời, cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 1085/QĐ-BCT ngày 08/05/2023 quy định Quy chế làm việc của Bộ Công Thương (Quy chế). Quy chế quy định rõ những nguyên tắc làm việc; chế độ trách nhiệm; quan hệ công tác; cách thức, quy trình giải quyết công việc chung của Bộ Công Thương và áp dụng đối với toàn thể cán bộ, công chức, viên chức người lao động của các đơn vị trực thuộc Bộ; các tổ chức, cá nhân có quan hệ công tác với Bộ Công Thương. Bên cạnh đó, Lãnh đạo Bộ  đã chỉ đạo sửa đổi, bổ sung  hầu hết các quy chế, quy định trong nội bộ, bảo đảm phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành và sự chỉ đạo, điều hành của cấp trên; Bộ trưởng cũng đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo nhằm tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đổi mới lề lối, phương thức làm việc chấn chỉnh, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, hiệu quả thi hành pháp luật và nâng cao trách nhiệm, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý điều hành tại Bộ Công Thương.

Việc triển khai các giải pháp chuyển đổi số, đặc biệt trong việc triển khai các ứng dụng chuyển đổi số trong thực hiện thủ tục hành chính, xây dựng dịch vụ công trực tuyến, kết nối với Cơ chế một cửa quốc gia… cũng được Bộ Công Thương chú trọng đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả và được các cấp các ngành và cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tôi cho rằng Bộ Công Thương vẫn còn rất nhiều việc phải làm để đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong việc thực hiện mục tiêu của Chính phủ là kiến tạo một không gian, hệ sinh thái cho phát triển công nghiệp và thương mại, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo, xuất nhập  khẩu,  phát triển lành mạnh thị trường nội địa… Cụ thể hơn nữa là làm sao để lan tỏa tinh thần đồng hành, phục vụ mạnh mẽ hơn nữa của ngành Công Thương tới từng người dân, doanh nghiệp và các đối tác quốc tế là điều tôi cũng như tập thể lãnh đạo Bộ trăn trở nhất.
Thực tế này cho thấy từ các đồng chí lãnh đạo đến mỗi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Bộ Công Thương cần phải nỗ lực hơn nữa trong công tác cải cách hành chính, nâng cao kỷ cương, đạo đức công vụ theo phương châm lấy người dân và doanh nghiệp là trung tâm để phục vụ.

VII. VƯỢT LÊN KHÓ KHĂN, NHẬN DIỆN THÁCH THỨC ĐỂ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH ĐỀ RA
Cuối cùng, xin Bộ trưởng cho biết dự báo về những khó khăn và giải pháp mà Bộ Công Thương đã xây dựng để ứng phó với biến động của năm 2024, một năm được đánh giá là vẫn còn tiềm ẩn rất nhiều những kịch bản khó lường?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Năm 2024 năm có ý nghĩa quyết định đến kết quả thực hiện các mục tiêu Kế hoạch 5 năm (2021-2025) trong bối cảnh được dự báo tiếp tục có nhiều khó khăn, thách thức, bởi nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, phụ thuộc nhiều vào xu hướng chung toàn cầu, trong khi tình hình quốc tế tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; kinh tế thế giới tuy có phục hồi nhưng còn chậm và tiềm ẩn nhiều yếu tố bất định, rủi ro.
Trong bối cảnh đó, để hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu ngành Công Thương được giao, góp phần thực hiện thắng lợi, toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 đã được Quốc hội thông qua, Bộ Công Thương tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan về phát triển công nghiệp, thương mại; nhất là các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội năm 2024.
Chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác thể chế; trước mắt, tập trung hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các Kế hoạch thực hiện 04 Quy hoạch ngành quốc gia về năng lượng, khoáng sản; khẩn trương tham mưu xây dựng, sửa đổi, bổ sung các Luật, Nghị định, cơ chế chính sách có vai trò quan trọng đến SXKD của doanh nghiệp, như: Luật phát triển công nghiệp trọng điểm, Luật Hóa chất (sửa đổi), Luật Điện lực (sửa đổi) và cơ chế, chính sách về điện mặt trời mái nhà, mua bán điện trực tiếp, khung giá các loại hình điện năng…; đồng thời, chủ động đề xuất với cấp có thẩm quyền cho thực hiện thí điểm một số cơ chế, chính sách có tính đột phá để thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực mới nổi và các mô hình kinh doanh mới, hiệu quả, tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế đất nước.
Hai là, khẩn trương xây dựng Kế hoạch hành động và tập trung triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết của Chính phủ về các giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024; trong đó, chú trọng các nhiệm vụ, giải pháp tập trung giải quyết các “điểm nghẽn” và tập trung tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi, phát triển sản xuất, nhất là trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; đẩy nhanh triển khai các dự án phát triển công nghiệp, năng lượng, thương mại, nhất là các dự án trọng điểm để sớm đưa vào hoạt động, góp phần nâng cao năng lực nội sinh của nền kinh tế.
Ba là, đẩy mạnh, tạo chuyển biến tích cực hơn trong thực hiện cơ cấu lại ngành Công Thương gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp có tính nền tảng, quan trọng và công nghiệp hỗ trợ; đồng thời, ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghệ cao (như sản xuất chíp, chất bán dẫn, khai thác chế biến khoáng sản) để trở thành một động lực mới thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong thời gian tới.
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế; chủ động tham mưu khai thác các cơ hội từ quan hệ đối ngoại với các nước lớn để đón đầu làn sóng dịch chuyển đầu tư các ngành trọng điểm sang nước thứ 3 của các tập đoàn đa quốc gia, nhất là trong lĩnh vực mà nước ta đang có nhu cầu và lợi thế, như: Công nghiệp điện tử, hạ tầng số, hạ tầng logistics, năng lượng sạch, công nghiệp vật liệu mới, khai thác chế biến khoáng sản quý, Chíp và chất bán dẫn; đồng thời, tăng cường thực thi hiệu quả các giải pháp kết nối chặt chẽ giữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước nhằm thúc đẩy phát triển kỹ năng quản trị, chuyển giao công nghệ, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt, đáp ứng yêu cầu tham gia ngày càng sâu vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. 
Tiếp tục phát huy tốt vai trò của hệ thống cơ quan Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài trong công tác hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên để đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng đẩy mạnh xuất khẩu. Tích cực tham mưu đàm phán, ký kết mới và nâng cấp các Hiệp định thương mại tự do với các đối tác còn tiềm năng nhiều ở khu vực Trung Đông, Châu Phi và Nam Mỹ…, tạo động lực tăng cường hợp tác thương mại và đầu tư; đồng thời, tăng cường hỗ trợ để doanh nghiệp chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch gắn với xây dựng thương hiệu, thúc đẩy xuất khẩu bền vững.
Chú trọng đổi mới công tác xúc tiến thương mại, kết hợp chặt chẽ giữa thương mại truyền thống với hiện đại, thương mại điện tử, kinh tế số nhằm khai thác hiệu quả thị trường nội địa còn nhiều tiềm năng; đồng thời, theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả, thị trường các mặt hàng thiết yếu để điều hành phù hợp, hiệu quả; tăng cường công tác quản lý thị trường và nâng cao năng lực phòng vệ thương mại, bảo vệ sản xuất và lợi ích người tiêu dùng, phù hợp với các cam kết quốc tế.
Năm là, tập trung sắp xếp lại bộ máy, nhân sự bảo đảm tinh gọn, hiệu quả; chấn chỉnh, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành và ý thức chấp hành của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức gắn với đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong triển khai thực hiện nhiệm vụ. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số, đổi mới lề lối, phương thức làm việc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong toàn hệ thống nhằm thực hiện thắng lợi, toàn diện các mục tiêu mà Đảng, Nhà nước giao cho.

Nhìn lại những kết quả đạt được trong năm 2023, bước sang năm 2024 mặc dù được dự báo sẽ còn tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức bởi tác động phức tạp, khó lường của tình hình chính trị, kinh tế thế giới và các yếu tố khách quan bên ngoài, cũng như những vấn đề nội tại cần phải vượt qua; song, với sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát, thường xuyên của các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ; sự phối hợp, ủng hộ tích cực của các Bộ, ngành, địa phương và cả hệ thống chính trị, tôi tin tưởng rằng tập thể lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động ngành Công Thương sẽ phát huy những thành tích, kinh nghiệm đạt được trong những năm qua, tiếp tục chung sức đồng lòng, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung; đề cao kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo, điều hành và ý thức trách nhiệm trong thực thi công vụ; nỗ lực phấn đấu hoàn thành và hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin và sự mong đợi của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!


 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Gian hàng

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi